Hiện nay Thiền đang gây những âm hưởng không ngờ trong nhiều địa hạt của văn hóa tây phương: âm nhạc, văn chương, từ nghĩa học, triết học tôn giáo và tâm phân học. Nhưng trong nhiều trường hợp, Thiền đã được trình bày hoặc giải thích một cách quá sai lạc, vì vậy ở đây tôi muốn giảng giải rất vắn tắt, trong giới hạn mà ngôn ngữ cho phép, Thiền có mục đích gì trong thế giới ngày nay, hy vọng tránh cho Thiền thoát khỏi cái cảnh bị phúng thích một cách quá phi lý.
Trước hết, tôi muốn nói đến một vài phong trào văn học khai sinh trên bờ bể phía Tây Mỹ Châu. Tôi không được liên lạc trực tiếp với phong trào ấy, và vì thế quả thật tôi không đủ thẩm quyền để phẩm bình về nó. Nhưng từ những lời của vài nhà phê bình, ta cũng có thể thâu nhặt được ít nhiều về những gì lưu chuyển trong đầu óc của các văn gia ấy. Như phương đông có câu: “ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu”, phải chăng tôi cũng có thể xem phong trào văn học ở San Francisco như một ngọn lá ngô đồng rơi, báo hiệu cho một sự biến chuyển khả hữu trong khí hậu tâm lý của nền văn hóa tây phương? Có lẽ là tôi đi quá xa, nhưng tôi nhường quyền phán xét cho độc giả.
Tôi xin trích dẫn tờ Sunday Times, Luân đôn, số ra ngày 15 tháng 6 năm 1958. Tờ báo tường thuật một cuộc hội họp của “thế hệ Beat” hay “nhóm phục sinh ở San Francisco” trong một vùng phụ cận nhỏ của đô thị ấy, và sau đó lại nói rằng nhóm người này gồm văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, là những thành phần “trí thức gàn dở” hơn là nghệ sĩ.
Họ có thể là những người báo trước một trào lưu tinh thần mới đang còn cần được định nghĩa và giải thích, hay có lẽ họ chỉ là những kẻ thất nghiệp, do một hệ thống giáo dục tập thể… Thiền Phật giáo là những thánh kinh của bọn người này, sách họ cần phải đọc.”
Một vài tờ báo Mỹ, cũng nói đến nhóm người kỳ dị này và liên kết họ với Thiền, mặc dù dường như người Mỹ không chỉ trích nhiều như người Anh. Tôi xin kể một quan điểm khác của người Anh rút từ báo The Listener, ngày 3-7-1958. “Các văn sĩ cảm thấy chung quanh họ những thị kiến của sách Khải huyền và họ không biết phản ứng bằng cách nào… Họ trú ẩn trong một đà sống không được hướng dẫn. Đối với họ, cuộc đời chỉ còn là một trò chơi hú tim rộng lớn, xen lẫn với những buổi tiệc, những giờ cuồng lạc, sự đồi trụy ôn hòa và một sự cố làm cho thiếu mạch lạc… Họ chạy khắp nơi như những con thỏ trên phi trường. Những guồng máy lớn của sinh hoạt hàng ngày đáp cánh xuống và bay lên, không để ý gì đến chúng, và còn về phần chúng thì bị chóa mắt vì ánh sáng và tiếng động, đã chuyên chú vào việc chạy hơn là đạt đến một nơi nào”.
Tôi không biết những nhận xét trên chính xác đến mức nào, nhưng vì người viết là ông Alan Pryce-Jones, chủ bút tờ The Times Litterary Supplement ở Luân Đôn, tôi không thể không kết luận rằng “thế hệ Beat” không phải chỉ là một hiện tượng thoáng qua, có thể được gạt qua một bên xem như không đáng lưu ý. Tôi lại muốn nghĩ rằng hiện tượng này có phần nào báo trước một cái gì đang đến, ít nhất là trong sinh hoạt Mỹ. Tôi nhớ vào một ngày năm ngoái, tôi đọc trong một vài tờ báo phổ thông nào đó ở Mỹ những bài tường thuật về nhóm Phục sinh San Fransisco trong mối tương quan với những hoạt động Thiền. Thiền dường như đã có trách nhiệm phần nào trong đó. Bây giờ trong nền tâm lý học Mỹ quốc, và có thể là trong tư tưởng Tây phương nói chung, còn có gì đáng lưu ý về Thiền?
Một tiểu thuyết gia hữu danh người Mỹ tên là Nancy Wilson Ross đã viết trong báo Mademoiselle Nữu Ước tháng 1-1958 như sau: “khi giải thích về sự chú tâm đến Thiền của người Tây phương, người ta phải chú ý đến những luồng ánh sáng đập vào tư tưởng Tây phương nhờ tâm phân học; những lời cảnh cáo nghiêm trọng của những tâm lý gia nói chung về những hậu quả bất hạnh gây bởi sự xao lãng những tầng lớp sâu xa hơn của ý thức con người, những kết quả không may về mọi mặt khi dồn ép những khía cạnh vô hình và tinh tế hơn trong con người, mà chỉ hoàn toàn chú ý đến một sự sinh tồn được ngoại diện hóa”.
Từ những nhận xét trên đây, tôi có thể nói như sau về thế hệ Beat: Có lẽ họ chưa động đến được nguồn mạch của sáng tạo, họ đang còn tranh đấu, một cách khá nông cạn, chống lại “dân chủ”, “sự đồng hóa trưởng giả”, “ý thức ước lệ của giới trung lưu”, và những đức tính cùng thói xấu tầm thường khác. Bởi vì họ “không có gốc rễ” như Simone Weil thường lên án họ, họ tự thấy mình chới với trong bùn lầy để đi tìm “con đường độc nhất đi đến chân lý bằng cách tự hủy diệt; bằng cách ở rất lâu trong trạng thái sỉ nhục cùng cực và toàn vẹn”. Họ chưa vượt qua những kinh nghiệm của họ về sự nhục nhã và đau buồn, và tôi có thể thêm, về sự mặc khải.
Trong phần điểm sách của tờ Nữu Uớc Thời Báo ngày 6-4-1958 có trích lời của Jack Kerouac nói rằng: “những thi sĩ thuần túy mới mẻ này… là những trẻ con… những Homère râu xám hồn nhiên ca hát trên đường. Họ hát ca, quay cuồng”. Vâng, có khá nhiều tính cách trẻ trung nhưng không hồn nhiên mấy. Tự nhiên tính chưa đủ, nó phải “có gốc rễ”. Những người này chưa phát triển được những gì đang nằm lặng yên trong vô thức của họ, nhất là cái cảm giác chính yếu về Ngã. Họ phải lớn lên thành người để trở nên có ý thức về những cội gốc đích thức của hữu thể và bước đi với một phẩm cách của con người.
Quả vậy, toàn thể thế giới hiện nay, như chỗ tôi thấy, quả là đang mò mẫm đi tìm những “gốc rễ” để bám vào đấy cho vững trong quá trình tiến triển tâm linh của họ. Và Thiền trước hết là đi tìm đạt đến những căn để của con người chúng ta, hầu làm cho tâm hồn được an nghỉ, để tìm bản lai diện mục của mình, để tìm chỗ đứng của mình. “Sự học hỏi thích đáng của người chính là học về con người”, và những gì cấu tạo nên con người chính là trí hay tâm của nó. Kokoro chính là Ngã, chúng là những từ ngữ có thể thay thế cho nhau, chúng được dùng không phân biệt. Đối tượng chính của Thiền học là biết về mình. Con người là gì? Tôi là gì? Căn để của cuộc tồn sinh là gì? Khi một người đến một vị Thiền sư để hỏi về Thiền, vị Thiền sư không cho anh ta một lời giải đáp nào đặc biệt, mà chỉ hỏi anh ta lại câu này “Cái gì đã đến đây với ta?” Để trả lời câu hỏi này, người ta bảo rằng người môn đệ đã phải mất đến 8 năm trường. Câu trả lời là: “Nói rằng cái đó là một cái gì thì lại không nhằm chỗ!”. Trong sinh hoạt hiện nay của chúng ta, tất cả những biến động hời hợt mà ta có thể quan sát trong địa hạt văn chương hay nơi khác, tất cả chúng đều là biểu hiện cua sự sợ hãi, nỗi bất an được cảm nhận trong tận cùng bản thể ta, và điều chắc chắn là cái cảm giác ấy chính là sản phẩm sự ngu dốt của chúng ta về Ngã. Những người thuộc nhóm Phục sinh có thể nghĩ rằng họ hiểu Thiền, nhưng trừ khi “một lời” được thốt ra, như những Thiền sư đòi hỏi nơi môn đệ của họ, những người ấy vẫn còn ở trên đường và vẫn chưa ở ngay “đấy”. “Một lời” chỉ có thể là một cái gì sống động, độc đáo, và hoàn toàn có tính cách sáng tạo.
Dù chúng ta có nói gì về sự giải thích duy tâm về thể phận con người, mọi sự, mọi vấn đề liên hệ đến đời sống của chúng ta có thể được thâu tóm lại trong công án sau đây trình bày dưới ba hình thức:
Hỏi: – Tu viện là cái gì?
Đáp: – Chính thế.
Hỏi: – Con người trong tu viện là gì?
Đáp: – Cái gì? Cái gì?
Hỏi: – Anh sẽ làm gì khi có khách đến?
Đáp: Uống một tách trà.
Những câu hỏi trên đây nói theo lối ngày nay là: Thế giới là gì? Con người là gì, hay đoàn thể nhân loại là gì? Những câu trả lời là những mẫu rất điển hình của Thiền, người ta sẽ bảo vì chúng bất chấp sự phân tích hợp lý hay bất cứ lối giải thích nào khả dĩ hiểu được. Nhưng chắc chắn là chúng trực chỉ đến vấn đề, và một người từng quen thuộc với Thiền sẽ cảm thấy rõ ràng những câu trả lời trên đầy sự sống và hoàn toàn có tính cách sáng tạo.
Câu hỏi thứ nhất thuộc về hữu thể học, nói đến vấn đề hữu thể, hay chúng ta có thể nói nó liên hệ đến vấn đề thế giới ta đang sống. Cái thế giới “khách quan” mà ta xúc tiếp này, trong ấy ta đã được sinh ra và phải sống, cái thế giới ấy là gì? Ý nghĩa của thế giới ấy là gì? Câu hỏi thứ hai đi sâu vào bản chất, ý nghĩa và vận mệnh của con người đang tự đặt mình biệt lập đối nghịch hẳn với một thế giới mà họ xem là khách quan như thế. Con người ấy là gì? Nó có thể làm gì? Nó có gì độc đáo trong nó không? Nó có hơn gì một con vật, có hơn gì một chiếc bánh răng cưa trong bộ máy khổng lồ gọi là “vũ trụ, cái bất khả tri” hay không? Câu hỏi thứ ba liên hệ đến mối tương quan giữa người với người của chúng ta. Chúng ta làm sao để sinh hoạt cộng đồng? Chúng ta làm sao để cư xử trong xã hội, đối với cá nhân, giữa tập thể? Tất cả mọi vấn đề phát sinh khi chúng ta tiếp tục sinh tồn cuối cùng đều quy về một trong ba câu hỏi trên. Nhưng rốt cuộc, vấn đề chủ chốt căn bản nhất mà chúng ta tự đặt cho mình là công án thứ hai thuộc về người.
Vấn đề con người thật ra là vấn đề về Ngã, “tự biết lấy ngươi” không phải đối lập hay tương quan với kẻ khác nhưng “ngươi” như là một cái Ngã tuyệt đối, độc lập đối với mọi cái tôi khác. Bởi vì khi cái Tôi đã được nắm vững một cách toàn vẹn và triệt để, thì chúng ta sẽ biết được vũ trụ, bao gồm cả sinh hoạt cộng đồng của con người. Câu trả lời của vị Thiền sư cho câu trả lời này là “cái gì cái gì?”. Câu trả lời của chúng ta có lẽ không cần thiết phải giống như câu trả lời của ông, mặc dầu cuối cùng có thể chúng ta cũng phải trở vê câu “cái gì, cái gì?”; Chúng ta trong thế giới ngày nay có nhiều phương thức khác nhau để diễn đạt ý tưởng. Và bây giờ, quả chúng ta đang tranh đấu gắt gao để đạt đến căn để của cái tôi, nhờ đó chúng ta có thể giải quyết mọi vấn đề phụ thuộc phát xuất từ vấn đề căn bản. Cần phải có một tâm hồn tìm tòi sâu xa và một tinh thần đau khổ lâu dài mới đạt đến được căn để này. Khi đã đạt đến đấy và cũng là khi chúng ta có thể an nghỉ, thì mọi vấn đề về con người có thể phát khởi đều được giải quyết theo kiểu ông đầu bếp Bào Đinh của Trang Tử dùng con dao để lách qua mọi khớp xương. Những “thanh niên giận dữ” (thế hệ ở Anh quốc tương đương với thế hệ Beat) vẫn còn lang thang trên mặt của thực tại và chưa đạt đến Ngã mà chính Ngã mới là nguồn mạch chân thật của sáng tạo.
Những con người của hiện đại quả đang mò mẫm trong bóng tối. Đấy là một tiếng kêu thuở lọt lòng, thốt lên trong mọi thời đại mới, trong những lãnh vực hoạt động của con người. Một vài người, tự lập và độc đáo, phản kháng lại sự phóng đãng và đạo đức giả, cộng sản và độc tài, kỹ nghệ hóa và cơ khí, khoa học và kỹ thuật – những cái làm nên đặc điểm của loại trí thức nông cạn rẻ tiền trong thứ thế giới tân tiến. Nhưng những người thuộc thế hệ Beat không hoàn toàn ý thức được vì sao họ nổi loạn hay họ dự định làm gì; họ không biết cái Ngã bên trong của họ đang vận chuyển trong phần vô thức thâm sâu; họ không biết rằng có một cái gì ở trong mỗi con người, và trong tập thể, đang thúc đẩy họ tiến lên mà họ không thể đoán định được bằng tri thức nó là cái gì. Nhưng nếu họ cảm nhận được và tìm ra được “cái gì” huyền bí ấy thì cái bệnh “điên cuồng thánh thiện” mới của họ sẽ chấm dứt: họ sẽ nghỉ ngơi, bằng lòng với chính mình và với toàn thể vũ trụ xúc tiếp với họ. Dĩ nhiên sự thỏa mãn này không phải là sự thụ động thuần túy hay sự ngồi không.
Cho đến lúc ấy, tôi chỉ sợ rằng tất cả những gì họ viết hay sản xuất không thể nào vượt ra ngoài cái mà một nhà phê bình Anh quốc gọi là một “trò hài hước tạm thời”. Ngay cả D.H. Lawrence và Simone Weil, những người được R. Rees ca ngợi là can đảm, theo ý tôi vẫn chưa thực sự thâm nhập vào trong những bí ẩn của Ngã. Một điều khá tự nhiên là vì họ đã lớn lên trong một bầu không khí Ky-tô giáo, họ không thể nào vượt khỏi bối cảnh của mình với tất cả những cạm bẫy của thần thoại trong bối cảnh ấy. Sau đây là tất cả những gì mà Lawrence đã có thể thốt ra theo Rees, vài ngày trước khi chết: “Không, giáo hội công giáo đã rơi vào trong chính cái thảm họa của giáo hội Thệ phản; cái thảm họa là thuyết giáo về một Thượng đế đạo đức thay vì một đấng Thượng đế tối cao, Thượng đế của sức mạnh và quang minh, quyền năng và trí tuệ: Thượng đế “thiện” thay vì một thượng đế sống động và huy hoàng. Và bất cứ ai trong chúng ta cũng không còn thực sự tin tưởng vào một Thượng đế chỉ có “thiện” mà thôi”.
Rees trích dẫn một lời rất thoải mái của G. M. Hopkin “cái mới mẻ ở tận cùng của mọi sự vật” và bảo chúng ta rằng cả Lawrence lẫn Simone Weil đều tin tưởng vào cái mới mẻ ấy, một cái gì có thể đạt đến bằng một phép mầu. Ông lại còn nói Simone Weil đã tin vào cái “siêu nhiên.” Những từ ngữ như “mới mẻ”,”một phép mầu”, “cái siêu nhiên”, “đấng tối cao” đều có thể đồng hóa được trong Thiền, nhưng thích hợp hơn với tinh thần Đông phương là đừng đem Thượng đế cổ truyền lên sân khấu. Hơn bất cứ một Thượng đế nào, chúng tôi thích một cái tâm tuyệt đối, ấy là Ngã.
Theo Thiền, Ngã là một nơi chứa đựng tất cả khả năng sáng tạo: phép mầu và huyền nhiệm, tự nhiên và siêu nhiên, thường và phi thường, Thượng đế tối cao và một Thượng đế “thiện”; chó sói và cừu non, gai nhọn và hoa hồng. Mọi vật thoát ra từ kho tàng sáng tạo bất tận ấy đều vĩnh viễn mới mẻ. Ngay cả sinh hoạt “trần tục” của chúng ta cũng không phải là một loạt những sự nhàm chán mà đầy huyền nhiệm và sinh khí. Khi chúng ta tỉnh thức trước chân lý này chúng ta không còn là “những con quay vô vọng trong một vũ trụ tất định”, bởi vì chân lý làm cho ta thấy rằng tất yếu là tự do và tự do là tất yếu trong cái Ngã vĩnh viễn sáng tạo và luôn luôn mới mẻ.
Căn bệnh ngày nay chứng tỏ rằng chúng ta đã mất thế quân bình tinh thần và run rẩy trước số phận làm người của chúng ta. Chúng ta phủ nhận mọi sự đang giữ cho chúng ta đứng vững một cách nào đó, không phải chỉ trên bình diện xã hội hay cộng đồng mà nhất là cá nhân. Chúng ta đang thất vọng không biết phải cắm sào cho cái Ngã của ta ở nơi nào trong ý nghĩa sâu xa nhất của nó, ngay cả chính Thượng đế cũng không thể nào giữ lấy cái Ngã ấy liên kết với Ngài như ngày xưa nữa. Đã qua rồi cái khẳng định tối hậu. “Cây sậy biết suy tưởng” đã bị bật tung gốc rễ và mọi sự suy tưởng của nó bây giờ không còn dùng vào đâu được nữa. Điều tệ nhất là con người ngày nay không chịu nhận chân sự kiện này mà lại còn nỗ lực hơn nữa để suy tư và suy tư, làm như thể cái suy tư đã mất hết chỗ cắm sào ấy có thể giúp chúng ta đứng vững với một cảm giác an ninh nào.
Thiền bảo chúng ta: “Hãy tìm lấy Ngã của ngươi, và ngươi sẽ được giải thoát an ổn”. Nhưng người ngày nay không biết Ngã là gì, và họ dễ dàng lầm lẫn rằng cái Ngã ấy là cái Ngã nhỏ hẹp ích kỷ của họ. Họ cố làm cho cái ngã nhỏ này đảm nhận vai trò và nhiệm vụ của cái Ngã lớn. Khi họ bảo phải tự nhiên và đừng ngại ngùng thì họ tưởng tượng họ đã khôi phục được nơi an bình nguyên ủy và hành động một cách quá tự tin nơi mình, ngã mạn. Khi không có Ngã thì tự nhiên tính chỉ là phóng đãng, là thuần nô lệ. Muốn tự nhiên người ta phải xúc tiếp với nguồn mạch sáng tạo mà đức tính cốt yếu là “dám là mình”. Nếu không có kinh nghiệm này, thì làm sao có thể có tự do, tự túc, không bị ngăn ngại? Còn về sự an ổn, thì hoàn toàn không phải là một vấn đề. Khi ta biết được thực chất của Ngã, thì ta sẽ thoát khỏi mọi thứ ràng buộc và được tự do. Đã tự do rồi thì còn đâu cảm thấy bất an nữa? Điều chính yếu là phải nắm vững lấy Ngã, nói theo ngôn ngữ Thiền là kiến Tính hay Kokoro.
Những tín đồ Thiên chúa giáo và Do thái giáo quan tâm đến vấn đề Thượng đế hiện hữu khách quan và bên ngoài chúng ta, trái lại phần đông những người Đông phương thường quay vào nội tâm, và trong chính mình để tìm ở đấy cái Ngã, nơi nương ở của Thực tại. Có thể nói là tôi muốn đặt Ngã ngang hàng với Thượng đế. Mà quả thực cả hai là một, Ngã là Thượng đế và Thượng đế chính là Ngã. Nhưng quan niệm truyền thống về Thượng đế thường đầy mầu sắc nhị nguyên và mỗi khi từ ngữ Thượng đế được dùng, chúng ta lại nghĩ đến bối cảnh thần thoại của nó. Thiền đặc biệt thoát ra ngoài sự rắc rối này. Tôi thích Ngã hơn Thượng đế – Cái Ngã đang ngồi lặng lẽ trong phần thâm sâu nhất của mỗi cá thể chúng ta, phải nói chuyện với Ngã không phải trên đỉnh cao nhất của núi Sinai, ở đấy “linh hồn là linh hồn” mà ở khắp nơi, trong chợ búa, trên nông trại, trên thuyền chài, trong chiến trường, ở trường học. Có vài chỗ có lẽ Thượng đế sẽ ghét bước vào, nhưng cái Ngã thì đi vào không ngần ngại. Ngã không biết đến rụt rè, nó cũng không gặp sự chống đối nào, bất cứ ở đâu. Thiên Thai tông gọi nó là “con người vô danh” và miêu tả nó là lan khắp vũ trụ trong thời gian cũng như không gian.
Bởi thế chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng ngã và Ngã, nhưng nếu chúng ta hiểu sự phân biệt này trong ý nghĩa tương đối và hợp luận lý của nó, nghĩa là loại bỏ nhau, thì chúng ta đã phạm một lỗi lầm lớn. Trong thế giới Thiền, không có chỗ cho mâu thuẫn. Do kinh nghiệm đặc biệt Thiền, mọi hàng rào giữa những ý tưởng xung khắc như chủ thể và đối tượng, có và không, tôi và người, tội lỗi và vô tội lỗi đều bị hủy bỏ. Sau khi chúng ta đã qua cái kinh nghiệm phá hủy và hòa đồng tất cả này chúng ta đi vào trong thế giới ở đấy sự suy tưởng thông thường hàng ngày của chúng ta thông dụng hơn, và thấy cái ngã không là Ngã, tuy nhiên cả hai đều tan hòa vào nhau, nghĩa là cái Ngã lớn hoạt động qua ngã, và ngã đâm sâu gốc rễ vào Ngã lớn để lấy dưỡng chất và nghị lực từ nơi nguồn mạch ngày xưa đã bị phủ lấp. Bấy giờ Thiền sẽ tuyên bố là: “A (ngã nhỏ) là A, và cũng là không-A (Ngã lớn), hoặc A là không-A và vì thế A là A. Một cách cụ thể hơn: “Đối với người chưa từng nghiên cứu Thiền, một ngọn núi là một ngọn núi. Khi y bắt đầu nghiên cứu chút đỉnh về Thiền, thì ngọn núi không phải là một ngọn núi. Nhưng khi người ấy hoàn toàn nắm vững Thiền thì một ngọn núi lại là một ngọn núi”. Thấy một ngọn núi không phải là một núi, ấy là sự điên cuồng hoặc tâm hồn đã chết đi. Nhưng chúng ta không phải dừng ở đây; chúng ta phải tiến lên nữa để đến nơi mà “hoa hồng lại đỏ và vi lô lại xanh”. Đây thật là một kinh nghiệm hoàn toàn vượt khỏi ý thức con người vốn thường chỉ hoạt động hiệu lực trong một vũ trụ của tương đối tính. Ở điểm này luận cứ sau đây có thể là không quá phi lý.
Một vài người bảo rằng thiên nhiên chuyển động bằng cách nhảy vọt, rằng động tác của nó không liên tục. Nhưng sự thực không phải thiên nhiên mà chính là tâm hay đúng hơn tri thức con người đã hoạt động theo kiểu ấy vì trí tuệ con người, tri thức, luôn luôn tiên định một sự phân chẻ giữa chủ thể và đối tượng, kia và đó, trắng và đen. Khi không có đối lập hay không có sự cắt xén thành hai thì không có tri thức, và sự cắt xén này tạo nên một trung gian do đó mà một mối tương quan được thiết lập giữa hai bên. Đen được biết là nhờ trắng và trắng được biết là nhờ đen. Khi một chuyển động là liên tục, không gián đoạn thì chúng ta không thể nào nhận biết đấy là một chuyển động.
Giữa bất cứ hai điểm nào của sự chuyển động, phải có một khe hở hay một khoảng thơi gian, và chính nhờ khe hở thời gian này mà tri thức được biết có chuyển động. Người ta không thể nghĩ đến một sự cắt xén nếu không giả thiết có một gián đoạn.
Muốn định nghĩa một đường thẳng người ta cắt nó ra thành nhiều điểm và làm cho những điểm này di chuyển từ điểm này đến điểm khác. Chuyển động quả là gián đoạn nó đi từ điểm này đến điểm khác. Một đường thẳng mà không thể cắt thành từng điểm hay từng phần thì nó không còn là một đường thẳng nữa. Ý thức cũng thế nó chỉ có được trong thời gian, và thời gian vĩnh viễn được phân chia thành những gián đoạn. Mỗi sự vật và bất cứ cái gì hữu hạn đều là một mảnh được tách chẻ ra từ cái vô hạn. Sự riêng rẽ bị tách chẻ này không phải la vật tự thân trong Thiên Nhiên mà chỉ ở trong tâm thức; cái tâm thức ấy bằng cách cắt xén mọi vật trong thiên nhiên thành hai, làm cho nhiên giới dễ nhận và dễ điều khiển, có thể phụng sự cho những mục đích thực nghiệm của con người.
Mối tương quan giữa thiên nhiên và những phần bị phân chẻ của nó tương tự mối tương quan giữa Ngã lớn với nhiều Ngã nhỏ. Những cái Ngã nhỏ được cá biệt hóa và như thế chúng không phải là cái Ngã lớn trong tính chất “như thị” của nó. Nhưng mỗi cái Ngã riêng biệt không thể là chính nó nếu nó không là Ngã lớn một phần nào. Điều này đưa ta đến sự khảo sát mối tương quan giữa những con số hữu hạn và vô cực.
Cái Ngã nhỏ là một con số hữu hạn bị giới hạn bằng mọi cách: 2 là 2 và không thể là 3 hay 4 hay 10 hay 100; và bất cứ con số hữu hạn nào khác cũng thế. Ngã lớn là cái vô cực trong nghĩa tuyệt đối của nó, chứ không phải trong nghĩa thứ tự của nó. Về phương diện thứ tự, thì một vô cực có hàm ẩn ít nhiều nghĩa phủ định. Ngã lớn như là vô cực thì không những bao gồm tất cả mọi con số hữu hạn tiếp nối nhau đến vô cùng, mà còn giữ trong đó một tổng thể vô hạn của mọi con số có thể có, và chính nhờ cái vô cực này mà tất cả mọi hình thức toán học khả dĩ thực hiện được.
Trong một “chuỗi bất tận những con số hữu hạn”, số 0 là tận điểm của những con số giảm dần, còn vô cực là tận điểm của những con số tăng dần. Về phần những con số hữu hạn, chúng ta không thể đạt đến một tận điểm nào trong hai hướng ấy, hoặc 0 hoặc vô cực, nếu chúng không nhảy vọt. Nhưng nói một cách thực tế và lô-gích, một cái nhảy cũng lại là một biểu tượng của tư tưởng con người đã khéo chế biến ra. Vì làm sao có thể có một cái nhảy vô hạn? Một cái nhảy là một quan niệm hữu hạn. Người ta không thể nào làm cho những cái vô hạn tự giới hạn chúng lại, vì khi làm thế, chúng không còn là vô hạn nữa; cả 0 lẫn vô cực đều không thể đạt được. Trong một chuỗi những con số hữu hạn, chuyển động trong bất cứ hướng nào – âm hay dương, tăng hay giảm – tất cả những gì chúng ta có thể xét được, tính toán được, xử dụng được trong bất cứ phương thức khả dụng nào đều bị giới hạn trong những con số hữu hạn. Nhưng một sự xử dụng như thế không bao giờ có thể có được nếu không có một tận điểm không thể đạt đến ở mỗi đầu. Những con số hữu hạn chỉ khả hửu trong phương trình: 0 = ∞.
Bây giờ chúng ta đi đến nghịch lý này: thế giới mà chúng ta sống là một thế giới tương đối và hữu hạn, bị giới hạn bằng mọi cách, và tôi nói rằng thế giới này chỉ có thể có được khi nó được đặt nằm trong vô hạn. Vậy thì trong một thế giới của vô hạn, cái cao nhất cũng là cái thấp nhất, cái hữu hạn cũng là cái vô cùng, 2 cũng là 3, 3 cũng là 4, một người xuẩn ngốc cũng là một vị thánh nhân. “Tôi” là “Anh” và “Anh” là “Tôi”, “tôi đang đi và tôi đang cỡi trên một con trâu nước”, “tôi, tay không, cầm một cái mai”, “đám bụi bay lên từ một cái giếng”, “biển cả sôi sục, phẳng lì như một mặt gương”, “đức Phật chưa bao giờ nhập niết bàn”, “chúng ta đang nghe đức Phật thuyết pháp trên núi Linh Thứu”. Văn học Thiền là một kho chứa những nghịch lý tương tự. Nhưng vì thế giới hữu hạn chúng ta đầy nhưng nhà luận lý thực nghiệm, và triết gia đủ loại, họ nhất định sẽ không đồng ý với quan điểm của tôi. Để đạt đến thế giới vô hạn này, hay Ngã hay Thượng đế, Thiền nhấn mạnh rằng chúng ta cần phải từ bỏ sự quay cuồng chạy theo luận lý, tri thức hay suy lý dưới bất cứ hình thức nào – dù là tạm thời – và nhào mình vào trong hố thẳm không đáy của cảm giác nguyên sơ, cái khát vọng không bao giờ thỏa mãn về “cái xa lạ” hay về “chân lý sẽ giải thoát chúng ta” khỏi xiềng xích của mọi hình thức hữu hạn và hoàn tất.
Đoạn trích dẫn sau đây của Simone Weil rất xác đáng và giúp ta hiểu thêm nhiều về khía cạnh này.
“Có một thực tại ở bên ngoài vũ trụ, nghĩa là ở ngoài không gian và thời gian, ở ngoài thế giới tâm linh của con người, ở ngoài bất cứ một lãnh vực nào mà khả năng con người có thể đạt đến.
Tương đương với thực tại này, trong tâm khảm con người, là một sự khát khao cái thiện tuyệt đối, một lòng khát khao luôn luôn có đấy và không bao giờ được thỏa mãn với bất cứ đối tượng nào trên đời này.
Một biểu trưng khác của thực tại này nằm trong những phi lý, của những mâu thuẫn nghịch lý và không thể giải đáp, vốn luôn luôn là tận điểm của tư tưởng con người, khi nó di chuyển hoàn toàn chỉ trong thế giới này….” (Rees, sách đã dẫn t, 130, trích từ Profession of Faith của S. Weil, trong Etude pour une Déclaration des Obligation envers l’Être humain trong Ecrits de Londres, Gallimard, 1957)
Bây giờ, những câu hỏi thực tế là làm sao tri thức con người có thể quan niệm 0, vô cực, sự liên tục bất tận, những sự duỗi dài không gián đoạn của thời gian và không gian, hay theo S. Weil, “thực tại ở bên ngoài thế giới”? Làm sao cái ngã bị cắt xén và giới hạn lại có thể quan niệm được, ngay cả nhận thực được cái Ngã lớn, không bị giới hạn, không bị cắt xén và vô cùng? Từ đâu mà chúng ta có khái niệm về Ngã lớn nếu giác quan và tri thức chúng ta không thể thấy bất cứ cái gì vô hạn hay vô cùng ở trong vũ trụ hiện tồn và kinh nghiệm của chúng? Làm thế nào và có thể nào chúng ta vượt khỏi “những phi lý của những mâu thuẫn nan giải và nghịch lý mà chúng ta bị vương vào một cách vô vọng?” Tuy nhiên chúng ta vẫn phải vượt, bởi lẽ nếu không thì sẽ không có sự bình an và bảo đảm, không có tự do, những điều mà chúng ta khao khát một cách tuyệt vọng. Để trích dẫn thêm lời S. Weil:
“… Tất cả mọi con đều tuyệt đối giống nhau khi ta nghĩ rằng họ chủ yếu đòi hỏi điều thiện, trong khi vẫn bị vây quanh bởi những vấn đề vật lý và thân xác”.
Thiện mà S. Weil nói đến không phải là thiện về đạo đức hay thiện tương đối. Đó là tiếng “tốt” mà như kinh chép, Chúa đã phán khi thấy thế giới xuất hiện sau khi Ngài ra lệnh ánh sáng tách rời bóng tối. “Thiện” này chính là thiện tuyệt đối, không nói đến những giá trị đạo đức; thiện đó cũng như chữ “good” trong “good morning” mà người Anh dùng chào nhau; đấy là cái thiện của Ummon (chết năm 949) mà khi được hỏi về một “hiện tại tuyệt đối”, hay một “cái Bây giờ – Ở đây tuyệt đối” đã trả lời: “Mọi ngày đều là một ngày thiện hảo!” (chuyện này nhắc ta nhớ đến người ăn mày của Eckhart).
Hiển nhiên rằng sự giải quyết mâu thuẫn tối hậu của con người không bao giờ có thể đạt được nhờ một tác động tri thức nông cạn và rẻ tiền, cũng không phải bằng cách đẩy cán cân kỹ nghệ hóa đến mức cao nhất. Tôi hoàn toàn đồng ý với lời của S. Weil: “Con đường độc nhất để thể nhập chân lý, nghĩa là của chân Ngã, là bằng cách hủy diệt chính mình trong mọi phương diện khả hữu”. Chúng ta không thể nào có được đức khiêm cung nếu chúng ta không chìm sâu xuống vô thức, nơi nương ở của cái Ngã, và con người tân tiến chưa đạt đến chỗ này. Freud và những đồ đệ của ông đã đào bới khá nhiều phần vô thức này nhưng điểm quan trọng nòng cốt vẫn còn chưa được động đến: sự khám phá Ngã.
Tổ Thiên Thai không nói nhiều về mình nhưng những gì rất ít mà Ngài đã nói có nhiều tầm quan trọng lớn lao:
“Khi chưa có chánh kiến, tôi hoàn toàn bị vây phủ trong bóng tối… Nội tâm của tôi bốc lửa, tâm hồn bất an, tôi chạy từ vị thầy này đến vị thầy khác để hỏi Đạo…”
Tuệ giác sâu xa của tổ Thiên Thai về bản chất của con người, nghĩa là Ngã như được thấy trong đoạn văn sau đây, vẫn còn nguyên vẹn qua sóng triều của những thời đại chuyển biến, tôi xin kết thúc bài này bằng đoạn văn ấy:
“Các ông muốn khép mình vào trong pháp của Phật thì cần phải tìm Chánh kiến. Khi đã đạt đến chánh kiến này các ông sẽ không còn bị vẩn đục vì sanh tử. Dù đi hay đứng các ông vẫn làm chủ mình, ngay cả khi các ông không cố hoàn thành một cái gì phi thường, cái ấy vẫn tự đến các ông.
Các ông có biết căn bệnh nằm ở đâu, căn bệnh đã làm cho những người tìm học như các ông không đạt đến được chánh kiến? Nó nằm ở chỗ các ông không tin tưởng vào Ngã của các ông. Khi không có lòng tin tưởng ấy các ông sẽ thấy mình bị lôi kéo bởi những niềm tin khác bằng mọi cách. Các ông không làm chủ được mình, bị những người khác lôi kéo đi nơi này hoặc nơi khác.
Điều cần thiết là các ông phải lập tức thôi để cho cái Ngã của mình đi tìm một cái gì bên ngoài. Khi thực hiện điều này, các ông sẽ thấy cái Ngã của mình không khác gì Phật hay Tổ.
Các ông có muốn biết Phật và Tổ là ai không? Ngài không là gì khác hơn là người mà ngay trong lúc này ngay trước mặt tôi, đang lắng nghe tôi nói pháp. Các ông không tin tưởng vào người ấy và vì thế các ông đi tìm một người nào khác ở một nơi nào khác bên ngoài. Và các ông sẽ tìm thấy gì? Chỉ thêm nhiều từ ngữ và danh hiệu, dù tốt đẹp cách mấy. Các ông sẽ không bao giờ đạt đến cái “hồn” linh động của Phật hay Tổ. Xin đừng lầm!”
TRIỀU VÂN dịch
Trích trong THE ESSENCE OF ZEN BUDDHISM, của D.T. Suzuki
Tạp chí Tư Tưởng, số 1, 1967