LỜI NGƯỜI VIẾT
Cầm viết biên lại Lịch Sử Hòa Thượng THÍCH THIỆN HOA, chúng tôi nhắm vào hai mục tiêu:
Mục tiêu thứ nhất, để tỏ lòng biết ơn người quá cố. Đời Ngài đã sống trọn vẹn cho Đạo Pháp, cho những kẻ hậu lai. Chúng ta là những người sau, cần phải ghi nhớ công ơn ấy.
Mục tiêu thứ hai, để cảnh tỉnh đoàn hậu tấn. Những cái đẹp của người xưa nếu không góp nhặt lại, những kẻ đi sau biết nương vào đâu để học hỏi. Đọc lại tiểu sử Ngài, chúng ta sẽ đỡ buồn tủi rằng, sao trước chúng ta không có người gương mẫu. Chúng ta sẽ vui vẻ, tự hào, bậc Thầy của chúng ta cũng có lắm người đáng kính.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa hài lòng, vì không nói hết được những điều mắt thấy tai nghe trong thời gian lãnh đạo của Hòa Thượng. Chỗ thiếu sót ấy, chúng tôi xin nhường lại cho những người LÀM SỬ sau này bổ túc.
Mong độc giả thông cảm cho.
Kính
HƯỚNG CHÂN
(Xuân Quý Sửu, 1973)
Tiểu Sử Cố Hòa Thượng THÍCH THIỆN HOA((Tiểu Sử Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo, GHPGVNTN – Ấn hành nhân ngày Kỷ niệm Chung thất Cố Hoà Thượng, Mồng 7 tháng 2, năm Quý Sửu (1973).))
THẾ TỘC:
Hòa Thượng Pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 07-08 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân-Quy (sau đổi tên là An Phú Tân). Quận Cầu Kè, Tỉnh Cần Thơ (hiện nay thuộc tỉnh Vĩnh Bình). Vì quy y từ thuở ấu thơ, Hòa Thượng lấy Pháp danh làm tục danh, nên Huý là Trần Thiện Hoa. Thân phụ Hòa thượng Huý Trần Văn Thê, Pháp danh Thiện Huệ làm đại Hương Cả làng Tân Quy. Cụ Ông qua đời lúc 53 tuổi. Khi ấy Hòa thượng vừa lên 6 tuổi. Cụ Bà Húy là Nguyễn Thị Sáu, Pháp danh Diệu Tịnh, thọ 90 tuổi, tịch ngày 19 tháng 08 năm Đinh Mùi (22-09-1967).
Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với Tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
Sau khi Thân phụ quá cố, Hòa thượng theo thân mẫu đi Chùa Phước Hậu, Làng Đông Hậu Quận Trà Ôn làm lễ cầu siêu trong 7 tuần thất. Duyên xưa gặp lại, mặc dù lúc ấy Hòa thượng chưa biết Đạo lý là gì, mà nằn nằn quyết một lòng đòi ở Chùa. Bởi gia đình mộ Đạo, nên Cụ Bà không từ chối nguyện lành của con. Mặc dù là con út (thứ chín), Cụ Bà rất mực thương mến, vẫn cắn răng cho con xuất gia. Năm ấy Hòa thượng vừa lên 7 tuổi, xuất gia tại Chùa Phước Hậu. Sau đó, Hòa thượng được gởi đến Chùa Đông Phước, Làng Đông Thành, Quận Cái Vốn (hiện giờ là Quân Bình Minh), theo học với Tổ Khánh Anh.
Là Ông Đạo thơ ngây, đầu còn để chóp về thăm nhà, người cậu thứ tám hỏi:
- Cháu đi tu muốn thành ông gì?
Hòa thượng đáp:
- Thành ông Phật lớn ngồi ngay giữa Chùa đó.
- Cậu lại Chùa, có ra chào hỏi không?
- Không.
- Tại sao vậy?
- Phật thì phải ngồi Từ bi đâu có đi chào hỏi ai.
- Cậu đến Chùa, có đem bánh chuối chè xôi đãi không?
- Không.
- Sao vậy?
- Sợ các ông Phật kia phân bì, vì đã ăn một phần còn để giành cho bà con nữa.
Ông cậu ôm Hòa thượng vào lòng vò đầu.
*
Trong gia đình chẳng những một mình Hòa thượng xuất gia, mà trước vài năm đã có người chị thứ bảy xuất gia. Đó là Sư Bà Diệu Kim hiện Trụ trì Chùa Bảo An, Cần Thơ, xuất gia lúc 17 tuổi. Sư Bà trước Trụ trì chùa Quan Âm ở Sa-Đéc và Chùa An Hòa ở Ô Môn. Sư Bà chính là người ủng hộ Hòa thượng đi Huế học, và những Phật sự buổi đầu sau này.
Người anh thứ tám đồng thời xuất gia với Hòa thượng hiện nay, là Thượng tọa Trụ trì Chùa Phật Quang, Trà Ôn, Pháp danh Tịnh Tâm (Thiện Tâm), hiệu Hoàn Tâm (Hoàn Triều). Kế đó, người anh thứ năm Pháp danh Thiện Minh cũng xả tục xuất gia sau Trụ trì Chùa Linh Quang tại Rạch Sung, Trà Ôn. Sau này, lại có những người cháu kêu Hòa thượng bằng Chú như: Tịnh Nghiêm, Tịnh Thuận và kêu bằng Cậu như: Bửu Châu, Hoàn Phú cũng lần lượt xuất gia. Có thể nói rằng, đây là một gia đình có nhiều người xuất gia nhất ở vùng này.
THỜI HỌC ĐẠO:
Học các trường Gia-giáo:
Hòa thượng cầu Pháp với Tổ Khánh Anh được hiệu là Hoàn Tuyên. Từ đó, Tổ được mời dạy những trường Gia-giáo nơi nào, Hòa thượng đều theo đó học tập, từ Chùa Đông Phước lần lượt đến các nơi, sau cùng là Chùa Long An. Năm 1931, Tổ Khánh Anh lãnh Chùa Long An ở Đồng Đế, Trà Ôn và khai Gia-giáo nơi đây. Năm ấy, Hòa thượng đã 14 tuổi, nhập chúng tu học tại Chùa này 3 năm.
Phật Học Đường Lưỡng Xuyên:
Đầu mùa Hạ năm 1935, Phật học Đường Lưỡng Xuyên khai giảng, Hòa thượng xin nhập học tại đây lúc đó được 17 tuổi, và ngay năm ấy, Hòa thượng thọ giới Sa Di. Từ đây Hòa thượng chính thức vào Phật Học Đường sống theo mẫu mực đạm bạc của đời Tăng sinh tươi trẻ. Sau 3 năm mãn lớp Sơ Đẳng nơi đây, Tăng sinh muốn tiến lên phải vận động ra Huế học. Với chí hiếu học và óc cầu tiến, Hòa thượng nài xin Ban Giám Đốc Phật học Đường Lưỡng Xuyên chấp nhận giới thiệu, và vận động thí chủ ủng hộ tài chánh. Kết quả Hòa thượng được mãn nguyện, lo khăn gói lên đường với các Pháp hữu: Thiện Hòa, Hiển-Thụy, Hiển-Không, Chí-Thiện, Bửu-Ngọc, Giác-Tâm. Thế là năm 1938, Hòa thượng được ra Huế học lúc ấy được 20 tuổi.
Phật Học Đường Báo Quốc:
Sau khi ra Huế, Quý Ngài dự học tại Phật học đường Tây Thiên hai năm. Kế đó vào Quy Nhơn ở Chùa Long Khánh để đến học Phật pháp với Tổ Phước Huệ ở Chùa Thập Tháp hết một năm tròn. Các Ngài lại trở ra Huế dự học tại Phật học Đường Báo Quốc ngót bốn năm. Sau, trường Báo Quốc dời Tòng-lâm Kim Sơn năm 1945. Lớp học tại đây vừa mãn thì chiến tranh dồn tới. Trường Kim Sơn không duy trì được, nên Hội An Nam Phật Học ủy thác cho quý vị Thượng tọa Trí Tịnh và Thiện Hoa v.v… mang một số học Tăng vào Nam. Thế là, ngót tám năm dài (1938-1945), quý Thượng tọa chịu nhọc nhằn cần mẫn học tập ở đất Thần kinh. Khi trở về mang một hoài bão “Hoằng Pháp Lợi Sinh”, để rồi Miền Nam bừng sáng do các Ngài mồi ngọn đuốc từ chốn Cố-Đô.
III. THỜI HÀNH ĐẠO:
KHAI GIẢNG PHẬT HỌC ĐƯỜNG PHẬT QUANG:
Năm 1945, Hòa thượng hợp tác cùng Thượng tọa Trí Tịnh khai giảng Phật Học Đường Phật Quang, tại rạch Bang-Chang, Xã Thiện Mỹ, Quận Trà Ôn. Số Tăng sinh đến dự học trên 30 vị. Năm 29 tuổi Hòa thượng thọ giới Tỳ Khưu và Bố Tát tại giới đàn Kim Huê, Sa Đéc.
Đến năm 1946 và 1947, Phật học Đường bị lung lay vì một số Tăng sinh tham gia phong tráo “Chống Pháp cứu nước”. Thấy tình cảnh chiến tranh của đất nước, thấy Tăng sĩ một phần đã cởi áo Cà-sa mặc chiến bào, Hòa thượng Trí Tịnh quyết định dời về Sai-gòn. Phật Học Đường Phật Quang đã khó khăn lại gặp khó khăn hơn. Một mình Hòa thượng vừa lo dạy học, vừa lo đối phó với hoàn cảnh.
Đối nội, Hòa thượng vẫn kiên trì giữ vững lớp học. Dù gặp nhiều khó khăn, nào Chùa bị đốt, Học chúng bị phân tá, Hòa thượng vẫn thản nhiên nói: “dù chỉ còn một Tăng sinh hiếu học tôi vẫn dạy đầy đủ như lúc ba mươi người”. Quả thật, đến năm 1950, Học chúng chính thức của lớp này không quá bốn người. Thế nhưng Hòa thượng vẫn dạy đều như thuở trước.
Đối ngoại, xã hội hiện thời đòi hỏi người dân phải công tác thật nhiều. Để bảo bọc cho Tăng chúng yêu tâm tu học, Hòa thượng mở những lớp học trẻ con, do Tăng sinh đảm trách. Đồng thời Hòa thượng mở trạm Y tế, để Tăng Ni thay nhau thuốc men để giúp đỡ đồng bào. Mỗi ngày Tăng chúng làm công tác dạy học, chích thuốc trọn buổi sáng, buổi chiều tất cả đều vào lớp học kinh điển.
Hòa thượng lại mở những lớp học “Bình dân” dạy ban đêm để “chống nạn mù chữ”. Lớp học này chỉ trong vòng 15 hôm, là học viên đọc và viết được. Sự học có kết quả nhanh chóng ấy, là do Hòa thượng có sáng kiến soạn tập sách “Vần Chữ O”.
Đích thân Hòa thượng chích thuốc, dạy lớp Bình dân. Thế mà việc làm Hòa thượng vẫn thấy chưa đủ, Ngài lại xoay qua học chẩn mạch cho toa, nếu người nào cần uống thuốc Bắc, Hòa thượng bảo Học-chúng: “Chúng ta cần đem Tứ Nhiếp Pháp và Ngũ-Minh (1) để giáo hóa chúng sinh, nhất là trong hoàn cảnh này”.
Tứ Nhiếp Pháp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sư.
Ngũ Minh: Nội minh, Nhơn minh, Thanh minh, Công xảo minh, và Y phương minh.
CỌNG TÁC PHẬT HỌC ĐƯỜNG NAM VIỆT ẤN QUANG:
Đầu mùa Xuân năm 1953, Hòa thượng cùng 8 đệ tử mang hành lý đến Phật học Đường Nam Việt (trong đó có Thầy Thanh-Từ) nhằm ngày mùng 8 tháng giêng Âm lịch. Sau cuộc họp của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, quý Hòa thượng đã đồng tình cử Hòa thượng vào giữ chức vụ Trưởng ban Giáo dục G.H.T.G.N.V. kiêm Đốc-Giáo P.H.Đ.N.V. và chức Trưởng ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Việt Nam.
Về Phần Giáo dục
Với trách nhiệm Đốc giáo P.H.Đ.N.V. Hòa thượng đã tận tâm giảng dạy cho hai lớp Cao Đẳng và Trung Đẳng nơi đây. Đồng thời, Hòa thượng cũng dạy lớp Trung Đẳng Ni-Chúng mở tại Chùa Từ Nghiêm, sau dời về Phật Học Ni Trường Dược Sư.
Kết quả, hai lớp ở P.H.Đ.N.V tại Chùa Ấn Quang đã lần lượt ra trường. Những Tăng sinh mãn lớp Cao Đẳng ra trường đầu tiên là: Thầy Bửu Huệ, Thiền Tâm, Tắc Phước, Tịnh Đức và Đạt Bửu. Lớp kế tiếp ra trường có những vị: Thầy Thiện Định, Huyền Vi, Thanh Từ, Từ Thông, Chánh Tiến, Quảng Long, Hoàn Quan v.v… Và những lớp sau này tiếp tục ra trường như: Thầy Thắng Hoan, Đức Niệm, Liễu Minh, Long Nguyệt, Trí Quảng, Huệ Thới, Minh Thành v.v…
Tại Ni-trường Dược Sư đã đào tạo nên một số Ni-Chúng khả dĩ gách vác được Phật sự đáng kể như: Sư Cô Như Huyền, Hải Triều Âm, Diệu Hoa, Minh Ngọc, Giác Nhẫn, Trí Hòa, Trí Định, Tịnh Thường v.v…
Đến năm 1957, Hòa thượng lại chủ xướng mở những khoá huấn luyện Trụ-trì lấy tên là Như Lai Sứ Giả. Tăng-giới đặt tại Chùa Pháp Hội, Ni-giới đặt tại Chùa Dược Sư. Mỗi khóa ba tháng trong mùa Hạ hoặc mùa Đông. Những vị Như Lai Sứ Giả này nếu tiếp tục học nhiều khóa sẽ trở thành Giảng viên của Giáo Hội.
Kết quả, bên Tăng đã đào tạo năm mươi hai vị như: Thầy Trường Lạc, Bửu Lai, Trí Châu, Nhật Long, Hồng Tịnh, Hồng Đạo, Hoằng Thông, Huyền Quý, Hiển Pháp, Thiện An, Huệ Thành v.v… Ni giới được ba mươi vị: Ni Sư Vĩnh Bửu, Như Hoa, Phật Bửu, Giác Thiên, Như Huy, Như Chí v.v…
Với trách nhiệm Trưởng Ban Giáo Dục trong Giáo hội Tăng Già Nam Việt, Hòa Thượng đã khuyến khích mở trường Phật Học ở các Tỉnh như: Trường Phật học tại Chùa Bình An, Long Xuyên (1956), trường Phước Hòa ở Vĩnh Bình, trường Giác Sanh ở Phú Thọ, trường Biên Hòa và Phật Ân ở Mỹ Tho v.v…
Có thể nói hầu hết Tăng Ni Miền Nam đương thời đều chịu ân giáo dục của Hòa thượng, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Về Phần Hoằng Pháp.
Hòa thượng nhận chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, và Hội Phật Học Nam Việt năm 1953. Đích thân Hòa thượng huấn luyện Tăng Ni sinh tại tại các Phật Học Đường để trở thành những Giảng sư thật sự. Đồng thời, Hòa thượng cũng huấn luyện các vị Trụ trì Tăng Ni đều có thể thành Giảng viên trên lãnh vực của mình và đi diễn giảng các nơi khác. Chẳng những đào tạo Tăng Ni, Hòa thượng còn huấn luyện số cư sỹ đã chịu khó theo học các lớp giảng tại Chùa Ấn Quang, khả dĩ đi diễn giảng các nơi được.
Hòa thượng mở các lớp giảng cho Cư sỹ tại Chùa Ấn Quang (trụ sở G.H.T.G.N.V) và Chùa Phước Hòa (Bàn Cờ) sau dời về Chùa Xá Lợi (Trụ sở Hội P.H.N.V.) hằng tuần vào chiều Chủ nhật. Chương trình được một số chư Tăng góp sức lần lượt ra đời. Kể từ đó, mở lớp giảng tại Chùa Giác Tâm, chi Hội Phật học tỉnh Gia Định, Chùa Dược Sư của Hội Phụ Nữ Phật Tử. Những nơi giảng này, Hòa Thượng phân công cho những Giảng sư do Hòa Thượng huấn luyện thay nhau giảng dạy. Đích thân Hòa thượng thì giảng dạy Phật tử vào tối thứ năm hằng tuần tại Chùa Ấn Quang.
Phong trào Học Phật Miền Nam trổi dậy như cơn vũ bão, khắp các Tỉnh Giáo hội và Hội Phật Học đều gởi thơ về Trung ương xin mở lớp Học Phật Phổ Thông tại trụ sở mình. Thế là, Hòa thượng phải phân phối Giảng sư đi giảng dạy mỗi chỗ mười hôm, căn cứ theo mười bài Phật học Phổ thông, một năm giảng hai kỳ. Quả thật sinh khí đã len vào mọi tâm hồn Phật tử, khiến họ hăng say học Phật. Cứ như thế mãi ngót tám năm trời (1955-1962).
Năm 1956, sau cuộc Đại hội kỳ hai của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Saigon. Hòa thượng lại giữ chức vụ Uỷ viên Hoằng Pháp Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Nhờ sự cộng tác đắc lực của Thầy Nhất Hạnh, nguyện san “Phật Giáo Việt Nam” ra đời. Hòa thượng lại tổ chức phát thanh Phật Giáo hằng tuần trên đài phát thanh Saigon.
Trước tác và phiên dịch:
Từ năm 1953 đến năm 1965, Hòa thượng soạn xong 12 khóa Phật Học Phổ Thông, hay gọi là Cây Thang Giáo Lý. Hòa thượng còn soạn Bản Đồ Tu Phật (10 tập), Duy Thức Học (6 tập), tám quyển sách quý: Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhơn Quả Luân Hồi, Ngũ Đình Tâm Quán, Tứ Diệu Đế, Từ Bi Trong Đạo Phật, Chữ Hòa Trong Đạo Phật và Năm Yếu Tố Hòa Bình.
Về phiên dịch, Hòa thượng đã dịch được:
- Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm
- Kinh Viên Giác
- Kinh Kim Cang
- Tâm Kinh
- Luận Đại Thừa Khởi Tín
- Luận Nhơn Minh
Hòa thượng chủ trương một Phật Học Tòng Thư phân làm 8 loại:
- Phật Học Phổ Thông 12 khóa
- Bản Đồ Tu Phật 10 tập
- Duy Thức Học 6 quyển
- Phật Học Giáo Khoa các trường Trung học Bồ Đề từ đệ Thất đến đệ Nhất
- Giáo Lý Dạy Gia Đình Phật tử
- Nghi Thức Tụng Niệm
- Tạp Luận
- Sự Tích
Các loại sách này gồm có 80 thứ.
Hòa thượng lại chịu trách nhiệm xuất bản đề tên nhà sách Hương Đạo.
Thực Hòa thượng đã có sáng kiến quý báu, công trình trước tác, phiên dịch đáng kể. Ngài đã đóng góp cho nền Văn hóa Phật giáo nói riêng, Quốc gia nói chung, một phần rất quan trọng.
Người Phật tử chịu khó đọc cho kỹ những tác phẩm này, sẽ có một trình độ khả dĩ tương xứng, trên con đường tu hành hầu đi đến kết quả.
THỜI LÃNH ĐẠO:
Thời pháp nạn dưới trào Ngô 1963, Hòa thượng đã tích cực tranh đấu cho Đạo pháp, lãnh chức vụ Phó Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. Với uy tín sẵn có, Hòa thượng kêu gọi Tăng Ni và Phật tử Miền Nam đứng lên bảo vệ Đạo pháp, đã được sự đáp ứng nồng nhiệt của Tăng tín-đồ. Sau cùng, Hòa thượng với chư Hòa thượng đồng vào khám đường, trong đêm hai nương tháng tám, năm sáu mươi ba (20-08-63), đến qua thời Pháp nạn. Cuộc tranh đấu được thành công, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời. Nhiệm kỳ thứ nhất của Viện Hóa Đạo, Hòa thượng nhận chức Đệ nhất Phó Viện Trưởng, kế đến nhận chức trụ trì Việt Nam Quốc Tự.
Sau pháp nạn 1966, Hòa thượng đảm nhận chức vụ Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Trong nhiệm kỳ này, con thuyền Phật giáo Việt Nam gặp nhiều sóng gió. Thế nhưng Hòa thượng vẫn nắm vững tay lái hướng thẳng theo con đường Bảo vệ đạo pháp và cứu nước cứu dân, lấy sự tồn tại của đạo pháp, trong sự tồn tại của dân tộc và nhân loại làm ngọn hải đăng.
Đến nhiệm kỳ III (1968) của Viện Hóa Đạo, Hòa thượng cũng được toàn thể đại biểu trong nước bỏ thăm lưu nhiệm. Thời gian này bịnh tình của Hòa thượng càng ngày càng tăng, mà trách nhiệm của Giáo hội lại càng nặng nề. Với thân nhiều bệnh hoạn, lại gánh vác trọng trách quá nặng, đa số môn đồ trông thấy đều sốt ruột, đồng cầu xin Hòa thượng từ chức, về chùa Phước Hậu tịnh dưỡng. Nhưng Hòa thượng bảo: “Tôi đặt đời tôi làm ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất chuyên học Phật pháp, giai đoạn thứ hai nỗ lực truyền bá, giai đoạn thứ ba tịnh dưỡng chuyên tu”. Nhưng “đạo pháp đang trong thời kỳ sóng gió, mọi người đang tin cậy tôi, tôi đâu nỡ buông tay để về ngồi yên tịnh dưỡng”. Môn đệ nghe những lời dạy này, đành cam nuốt lệ chớ không dám van nài.
Chính Hòa thượng đã từng dạy Tăng Ni: “Chỗ nào chúng sanh mời thì mình đến, chỗ nào đạo pháp cần thì mình đi, không kể gian lao chẳng từ khó nhọc”. Và Hòa thượng cũng thường quở trách Tăng Ni không chung lo Đạo pháp, chỉ bo bo giữ chùa riêng, bổn đạo riêng, bằng câu nói: “Một con trâu cũng tốn một thằng chăn, cả bầy trâu cũng chỉ một thằng chăn. Tại sao khuôn mình trong chỗ hẹp mà quên việc to lớn?”. Những lời dạy bảo này thực phát xuất từ đáy lòng của Bồ-tát, nói lên bởi tâm lợi tha không bờ bến, lòng mến đạo không chừng ngằn.
Có lần Sư bà Bảo An được quý Ni sư thỉnh giữ trọng trách trong Ni bộ. Sư Bà đến hỏi ý Hòa thượng, được Hòa thượng đáp: “Gánh vác Phật sự là việc tốt, nhưng khi lãnh nhiệm vụ lớn, phải tự xem mình như đứa con nít. Dù bị người chê khen khinh trọng vẫn không nao núng. Đừng nhớ mình có chùa to, có đệ tử nhiều, gặp việc trái ý là xách gói về chùa. Tâm niệm được như thế, mới nên đảm đang đại sự”. Sư bà nghe qua, rồi lặng lẽ cáo lui.
Những Phật tử trong Ban Từ Thiện Ấn Quang, lắm khi ra làm Phật sự gặp nhiều điều khó khăn, về chùa than thở với Hòa thượng thì Hòa thượng dạy: Phật sự lúc nào làm được nên cố gắng mà làm, đến khi thiếu duyên dù có muốn làm cũng không thể làm được. Nên nhẫn nhục thông qua thì mới viên mãn công đức.
Trong thời gian này, những Phật sự tại miền Nam Tăng Ni hay cư sĩ làm được điều gì đều nhờ sự khuyến khích an ủi của Hòa thượng. Phật Học Viện Huệ Nghiêm được thành hình và tồn tại đến nay, cũng nhờ ơn Hòa thượng đôn đốc và ủng hộ. Cô Nhi Viện Diệu Quang được thành lập cũng bởi Hòa thượng thúc đẩy (chính Hòa thượng đứng tên vay tiền mua đất cho Cô Ni Viện Diệu Quang). Vì bản ý của Hòa thượng muốn cho Ni chúng sau này vừa tu học vừa làm công tác xã hội. Hòa thượng thấy Phật Học Viện Huệ Nghiêm phát triển mạnh, hy vọng ở đây mai này sẽ có nhiều vị Tăng ra giảng dạy Phật pháp. Cho nên Hòa thượng cố tình tạo thành Cô Nhi Viện Diệu Quang để làm cơ sở cho Ni chúng trẻ tuổi có đủ hai điều kiện học đạo và công tác xã hội. Học đạo thì gần Huệ Nghiêm thỉnh chư Tăng đến dạy, công tác xã hội thì mỗi ngày thay nhau săn sóc các em cô nhi. Nhưng Hòa Thượng đã đi khi công việc chưa hoàn toàn thành tựu.
Đến như Ban Từ Thiện Ấn Quang, làm được những công tác từ thiện hay Phật sự nào đều có sự khuyến khích, nhắc nhở của Hòa thượng cả. Như đi cứu trợ nạn lút miền Trung, chính Hòa thượng hướng dẫn phái đoàn đến tận nơi cứu giúp. Hoặc xây cất Niệm Phật Đường trong khám Chí Hòa, cất chùa trong Dưỡng Trí Viện Biên Hòa v.v… cũng do Hòa thượng cùng Hòa thượng Thiện Hòa đôn đốc.
Tóm lại, từ năm 1964 đến năm 1972, mọi Phật sự đáng kể ở miền Nam đều được Hòa thượng trợ giúp, hoặc trực tiếp hay gián tiếp.
VIÊN TỊCH:
Hòa thượng khởi bệnh từ tối đêm 17 tháng 11 năm Canh Tý, sau ngày lễ vía Đức Phật A Di Đà. Hôm nay vì Hòa thượng Thiện Hoà đi vắng, Hòa thượng phải Chủ lễ và chiều truyền Tam quy ngũ giới cho Phật tử. Bởi trong mình sẵn bệnh, lại thêm sự nhọc nhằn, nên Hòa thượng được đưa vào bệnh viện Đồn Đất điều trị.
Mấy hôm sau Hòa thượng từ từ khoẻ lại, nhưng bác sĩ cho biết bệnh của Hòa thượng cần phải được giải phẫu, và Hòa thượng thường nói với các đệ tử đến thăm viếng: “Nếu kỳ đau này tôi phải chết, tôi rất hài lòng, vì đối với sự “hoằng hóa” tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Đối với Đạo Pháp tôi đã gánh vác được một giai đoạn khó khăn”. Hòa thượng nói thêm: — Mấy hôm rồi thấy Tăng Ni Phật tử bốn phương về thăm tôi, tôi cảm nghĩ như ngày xưa khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, Bốn chúng khắp mọi nơi đều tấp nập kéo về.
Sau khi giải phẫu, bệnh của Hòa thượng càng ngày càng nhẹ, ai cũng tin rằng không bao lâu Hòa thượng sẽ bình phục trở về chùa. Một phóng viên báo Điện tín đến vấn an, hỏi về cảm nghĩ của Hòa thượng trong thời gian ở bệnh viện. Hòa thượng đáp: Tôi không mong ước gì hơn sớm có ngưng bắn, để cho dân tộc Việt Nam được hưởng một mùa Xuân thanh bình.
Một hôm, Hòa thượng Thiện Hòa vào thăm Hòa thượng. Tuy cảm thấy bệnh tình đã nhẹ rồi, mà Hòa thượng vẫn dặn dò mọi việc, cho đến kinh sách hiện còn, đều giao cả cho Hòa thượng Thiện Hòa. Thấy điều lạ, Hòa thượng nói: “Nằm ít hôm nữa bệnh lành rồi về, nói chi chuyện ấy”.
Bất thần, ngày 17 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng trở bệnh. Đến đêm 19 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng thấy mệt, biết mình không qua khỏi nên gọi các môn đệ đến bảo: “Các con niệm Phật cho Thầy vãng sanh, Thầy mệt quá rồi”. Từ giờ phút ấy tiếng niệm Phật đều đều vang lên trong gian phòng hồi sinh. Từ đó Hòa thượng lặng lẽ dần dần đến 06 giờ 5 phút, sau một hơi thở dài rồi im lìm theo Phật!
Hòa thượng đã an lành viên tịch vào sáng ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tý nhằm ngày 23 tháng giêng năm 1973, thọ 55 tuổi và được 26 tuổi hạ.
Hòa thượng xong việc ra đi, nhưng để lại cho hàng Giáo phẩm trong Giáo hội bao nhiêu niềm mến tiếc. Tăng Ni cảm thấy bơ vơ hết chỗ tựa nương, hàng Phật tử mất đi một bậc Thầy hiền kính ái. Ngôi nhà Đạo pháp đã thiếu đi một cây thạch trụ chịu đựng!
NHẬN XÉT
Hòa thượng Thiện Hoa là một tấm gương sáng cho hàng Tăng sỹ soi chung. Hòa thượng có những đức tánh cao quý, ai được sống gần Hòa thượng đều cảm mến.
Mặc dù là người xuất gia, nhưng Hòa thượng vẫn không quên chữ Hiếu (vì thế thường người ta nghĩ trái lại). Lúc Hòa thượng còn dạy học tại Chùa Phật Quang, Cụ Bà cũng lập Am gần đó. Mỗi khi Cụ Bà bệnh, đích thân Hòa thượng chích thuốc, hoặc chấn mạch ra toa hốt thuốc. Đôi ba hôm là Hòa thượng đến thăm, đó là lúc thường. Đến khi Hòa thượng lên Saigon, Cụ Bà về ở với người chị thứ hai của Hòa thượng gần chùa Phước Hậu.
Phật sự ở Trung ương rất bề bộn, mà những lúc bãi trường hay rảnh việc, thì Hòa thượng liền về thăm Cụ Bà. Đến khi Cụ Bà tịch, Hòa thượng gắng hết sức mình, cúng dường Tăng Ni, để cầu siêu cho Mẹ. Quyển sách Bài Học Ngàn Vàng của Hòa thượng viết ra, cũng nguyện đem công đức đó hồi hướng cho Cụ Bà. Đơn lược bấy nhiều đó cũng đủ chứng minh lúc nào Hòa thượng cũng quý mến Mẹ, và cố độ cho Mẹ được siêu thăng.
Về ân nghĩa, Hòa thượng thọ dụng của ai thì không bao giờ quên. Vì thế mỗi khi dạy đồ chúng, Hòa thượng thường nhắc lại công ơn của quý Hòa thượng xưa đã dạy bảo cho Hòa thượng. Chính ngôi chùa Phước Hậu mà Hòa thượng phải đứng ra vận động trùng tu năm 1952 cũng vì lẽ ấy. Bởi một hôm Tổ Khánh Anh gọi Hòa thượng đến bảo: “Ngôi Chùa này thí chủ cúng cho tôi từ năm 1941, trước kia lành lặn, đến nay (1951) đã hư mục. Tôi dành dụm được một số tiền là 150.000 đồng, định sửa chữa lại, nhưng thấy chưa đủ. Ông vận động phụ cho đủ để xây cất lại, nếu tôi có theo Phật cũng được an lòng”. Thế rồi đâu năm 1960, Tổ viên tịch. Hòa thượng nhận lấy trọng trách đó, nên đã cố gắng vận động trùng tu cho Tổ hài lòng nơi cõi Phật. Gia đình Ông Trương Hoàng Lâu, trước kia đã góp một phần tài chánh giúp Hòa thượng ra Huế học. Sau lần giải phẩu tại bệnh viện Đồn Đất, được tin bà Trương Hoàng Lâu tạ thế tại Saigon. Hòa thượng gọi thầy Thanh Từ đến bảo: “Gia đình ông Trương Hoàng Lâu có ơn nghĩa với tôi, hôm nay Bà mất, tôi không thể đi thăm được, vậy Thanh Từ hãy thay tôi đến tụng cho bà một thời kinh và chia buồn với gia quyến”. Bệnh như thế mà Hòa thượng vẫn không quên ơn người Thí chủ của mình.
Hòa thượng lúc nào cũng sẵn sàng một tâm niệm bao dung hòa ái. Ít ai thấy được trên khuôn mặt của Người lộ vẻ bất bình, cũng ít ai nghe được nơi Người thốt ra những lời bực nhọc. Dù hạng người nào đến đều được Hòa thượng tiếp chuyện một cách vui vẻ từ tốn. Nếu có ai bực tức phê bình, giữa vị này với vị no, Hòa thượng đều tìm cách xoa dịu, hòa giải. Hòa thượng lúc nào cũng muốn hòa nhau trong tình Đạo, không chịu thấy sự rạn nứt chia ly.
Tuy Hòa thượng thích nhu hòa mà cương nghị. Đường lối của Hòa thượng và của Giáo hội đã vạch ra, dù gặp khó khăn đến mấy, cũng vẫn từ từ mà tiến tới. Tuy khiêm tốn mà vẫn bất khuất, tuy nhu hòa mà lại vững vàng. Đó là lập trường cố hữu của Hòa thượng.
Cuộc đời của Hòa thượng coi như hy sinh trọn vẹn cho Đạo Pháp. Từ lúc lớn khôn cho đến ngày theo Phật, lúc nào Hòa thượng cũng chỉ biết lo cho Đạo và làm việc cho Đạo. Nhưng hôm nay có nhiều người than phiền: “Hòa thượng đòi Hòa Bình, nguyện cầu Hòa Bình, mà khi mặt trời Hòa Bình ló dạng, Hòa thượng lại vội vã ra đi!” Thực sự, đó mới đúng tinh thần Lợi tha, làm việc chỉ vì người chớ không nghĩ đến mình.
Sự nghiệp quan trọng nhất trong đời của Hòa thượng, là những tác phẩm và dịch phẩm do nhà xuất bản Hương Đạo ấn hành. Thế mà Hòa thượng đã viết: “Những tác phẩm hay dịch phẩm, của nhà Hương Đạo chúng tôi, sau khi tu chỉnh hoàn bị và thanh toán tất cả nợ nhà in rồi, chúng tôi sẽ làm lễ hiến cúng cho GHPGVNTN hay những người nối theo chí nguyện (phiên dịch và sáng tác) của chúng tôi.
Và Hòa thượng hồi hướng:
Tôi làm được điều lợi ích gi, có bao nhiêu công đức, đều hồi hướng:
Trên đền đáp bốn ơn
Dưới cứu giúp ba loài,
Cầu nguyện cho:
Mặt trời Phật thêm sáng,
Bánh xe Pháp xoay hoài,
Thế giới đều Hòa Bình,
Nhơn dân được an lạc,
Tôi và các chúng sinh,
Đều sinh về cõi Phật.
(Trích trong quyển Một sự nghiệp của đời tôi. Hương Đạo xuất bản năm 1965)
Quả thật Hòa thượng không còn gì cả. Chính chỗ không còn, không có gì cả đó, mà Tăng Ni và Phật tử mới chân thành kính mến Hòa thượng.
Tuy, Hòa thượng tự chia cuộc đời mình làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ ba Hòa thượng chưa được sống. Song Ngài vẫn hài lòng, vì sở nguyện đã tròn. Và cho đến phút “lâm chung vẫn gối đầu trên Phật sự”, đó mới thật chỉ thấy Đạo Pháp mà quên mình.
Buổi lễ đưa Kim quan Hòa thượng đến An Dưỡng Địa trà tỳ (thiêu ngày 25 tháng Chạp năm Nhâm Tý, ngày 27-01-1973), chúng ta đã chứng thật được lòng ngưỡng mộ của toàn thể đối với Ngài. Số người đi đưa có đến mấy mươi nghìn, người đi hàng ba dài đến đôi ba cây số. Có thể nói số người đi đưa được ghi nhận là đông nhất so với các kỳ lễ trước.
Và chính ngày thu lại hài cốt Hòa thượng (28-01-73) là ngày ký ngưng bắn tại Miền Nam. Thực là đời Hòa Thượng gắn liền với Đất nước và Dân tộc.
(Còn tiếp)