Trước đây đã giải thích các tính chất của mười nghiệp đạo; tiếp theo sẽ nói về ý nghĩa của nghiệp đạo.
Luận
Duy Thức phái là một trường phái Phật giáo Đại thừa. Trường phái này thường được biết đến với hai tên gọi khác nhau tùy thuộc vào khía cạnh tiếp cận.
Kinh dạy có bốn loại nghiệp là (1) nghiệp đen, dị thục đen; (2) nghiệp trứang, dị thục trắng; (3) nghiệp đen trắng, dị thục đen trắng; (4) nghiệp không đen không trắng,…
Nhập Bồ-đề hành luận có sự ảnh hưởng sâu rộng, đặc biệt là ở Tây Tạng; và tác phẩm này cũng được xem như là một cẩm nang tu tập không thể thiếu đối với nhiều hành giả ở xứ sở này.
Luật nghi này liên quan đến tất cả các nghiệp, như nghiệp gia hành, nghiệp căn bổn, nghiệp hậu khởi.
Theo Duy Thức Học, vô lượng các nỗi sợ nêu trên đều cảm nhận là được xuất phát ra từ nơi Bản Ngã (cái Tôi, cái Ta) của tất cả dạng loại chúng sinh trong tam giới (Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới)
Tánh không luận – cuộc cách mạng tư tưởng đã tạo ra một dấu ấn lớn trong lịch sử triết học Ấn Độ
Tâm bồ đề là tâm nguyện vì lợi ích chúng sinh mà cầu giác ngộ. Tâm này quả thật kỳ diệu tuyệt vời.
Ba loại vô biểu là luật nghi, Bất luật nghi, phi luật nghi phi bất luật nghi.
Đại thừa khởi tín luận là tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng của Mã Minh nhất. Đây là bộ luận hàm chứa tư tưởng Như lai tạng, tiền đề cho Duy thức học sau này.
Cũng như chư Phật cùng chư bồ tát đã từng phát tâm vô thượng bồ đề, nay tôi cũng làm đúng theo như vậy,…
Phần trước đã căn cứ vào yojana để trình bày về khí thế gian và thân lượng, đồng thời cũng căn cứ vào năm, tháng, v.v., để trình bày thọ lượng; tuy nhiên vẫn chưa giải thích về yojana và năm.
Việc học và hành về tánh không là công việc sâu xa lớn rộng. Ở Tây tạng người ta phải trải qua nhiều năm để học về Không. Do đó những trình bày sau đây về Tánh không chỉ là toát yếu sơ lược.
Tứ đại sở tạo sắc là gì? Đó là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, sắc, thanh, hương, vị, một phần của xúc và vô biểu sắc.