Từ Phương Vân Am đến Phương Khê nội viện
“Bên cội tùng chú bảo
Thầy vừa đi hái thuốc
Chỉ tại núi này thôi
Mây mù không thấy được”
Thầy có thể đang đi hái thuốc nhưng cũng có thể là không. Ngoài những khi cứu người, giúp đời nếu có thời gian rảnh là Thầy lại trở về những nơi yên tĩnh, thanh vắng, có sương sớm, có núi đồi, có rừng cây, có tiếng suối, tiếng chim. Có thể Thầy đang đốt lò sưởi trong ngôi nhà gỗ ở Phương Bối Am nơi rừng Đại Lão, trên ngôi nhà Thượng hay ở chiếc Cầu Mai trước cửa rừng, cũng có thể Thầy đi lên đồi Thượng để thăm những luống chè mới và ngắm nhìn những ngọn núi xa có mây trắng phủ đầy. Hoặc là Thầy đang cuốc đất trồng rau ở Phương Vân Am hay đang ngồi chơi, nghe suối chảy trong vườn tre ở Nội viện Phương Khê. Dĩ nhiên là sư chú biết Thầy mình đang ở đâu, nhưng vì không muốn làm phiền Thầy nên sư chú đã mượn mây mù, mượn núi thẳm để nói đấy thôi.
Phương Bối là một loại lá thơm, Phương Vân là mây thơm, và Phương Khê là dòng suối thơm. Chúng ta có am Phương Vân vào tháng 8 năm 1971. Đó là một ngôi nhà bỏ hoang ở giữa con đường liên tỉnh nối liền thành phố Troyes và Sens nằm ở miền trung nước Pháp, cách Paris khoảng 150 cây số. Am Phương Vân nằm tựa trên một sườn đồi và sau ngọn đồi ấy còn nối tiếp những ngọn đồi khác, rất đẹp. Trước mặt am về phía bên kia quốc lộ 60 là những cánh đồi và cánh rừng thuộc vùng Othe. Sau lưng am là ruộng lúa mì và phía bên phải cách đó 500 mét là đồng cỏ của một nông trại nuôi bò. Trên đỉnh đồi trái phía sau am là một khóm rừng lớn, ở đó có một cây thông rất lớn và rất sum suê, Thầy đặt tên là cây thông Thanh Từ. Ngoài ngôi nhà chính thì cốc của Thầy là cái chuồng bò kế bên, vách đá giống như nhà chính. Vì chuồng bò, hai bên không thông nhau nên rất tiện xây cốc cho Thầy để không ai làm phiền khi Thầy cần không gian yên tĩnh để viết lách hay dịch kinh. Phía trước sân am có một cái giếng nước cũ, thành giếng do Thầy xây lại, cạnh giếng có một cây mận rất ngon và xung quanh giếng có treo nhiều võng, gần đó cũng có một cây táo (pommier) rất sai trái. Loại táo có trái khá lớn nhưng chua; các em thiếu nhi và cả người lớn thường giã muối ớt để ăn với táo, rất thú vị. Họ cắt táo thành nhiều lát mỏng để ăn như ăn xoài chua.
Mặc dù đã có Phương Vân Am, nhưng Thầy chưa về ở hẳn vì có nhiều công tác cần phải làm như vận động hòa bình, nhân quyền cho Việt Nam, dạy học.., Thầy chỉ về am vào những ngày cuối tuần hay vào những lúc rảnh rỗi khác. Cũng vào năm đó, tức là năm 1971, trong khi đi Canada trình bày với quốc hội Canada về tình hình Việt Nam thì Thầy bị chính quyền của cả hai miền Nam-Bắc vô hiệu hóa hộ chiếu, không cho Thầy trở về nước nữa; Thầy liền trở về Pháp và tổ chức họp báo ngay tại phi trường Charles de Gaulle – Paris, và cuối cùng chính quyền Pháp đã cho Thầy tỵ nạn tại Pháp. Cuối năm 1975, sau khi gặp nhiều khó khăn trong việc gửi tiền và gạo về Việt Nam, Thầy quyết định đóng cửa Văn Phòng Phái Đoàn ở Paris và về ở luôn tại Phương Vân Am để nuôi dưỡng và tĩnh tu, và cũng để giúp cho những người đồng sự của Thầy chữa lành những vết thương. Có lần vì thấy những người học trò của mình cứ bị chìm trong những lo lắng và sầu khổ về tình trạng ở Việt Nam, Thầy nói: “Các con phải tự cứu lấy mình thôi, Thầy có vững chãi mấy cũng không thể bơi dùm cho các con được. Phải bám lấy hơi thở để giữ cho tâm an định trong giây phút hiện tại và tập nhìn sâu để thấy cái giá trị, cái mầu nhiệm của giây phút ấy trong từng công việc hàng ngày của mình như rửa chén, lau nhà, làm vườn, không được rời giây phút hiện tại, đừng để mình trở thành nạn nhân của hoàn cảnh. Các con nghe không!” Khi đọc lại Nẻo Về Của Ý, chúng ta cũng thấy lời dạy ấy: “Chúng ta phải có một nơi như thế để quay về để chữa lành những vết thương đang rướm máu, để nuôi dưỡng và bồi đắp lại những gì chúng ta đã phí phạm và để chuẩn bị cho một cuộc hành trình khác. Niềm tin, sự trong sáng của tâm hồn chúng ta đã bị hao tổn quá nhiều. Chúng ta nhận thức được điều đó, và chúng ta quyết định tìm con đường phải đi. Nghĩa là điều trước tiên và căn bản cần phải làm là phải trị liệu, bồi đắp, và nuôi dưỡng tự thân, nếu không thì sẽ đánh mất chính chúng ta.” Do đó, trở về để tự chữa trị và nuôi dưỡng lại thân tâm là sự thực tập rất quan trọng trong những năm Thầy bôn ba làm việc xã hội và vận động hòa bình cho quê hương đất nước.
Trong thời gian còn ở am Phương Vân, khi hay tin sách của Thầy và một số sách của những nhà văn nhà thơ ở Việt Nam bị đốt, Thầy buồn lắm. Ngay sau đó, Thầy thành lập nhà in để in sách chuyển đến cho các trại tị nạn và cố nhiên là tìm cách gửi chui về Việt Nam; cùng thời điểm đó, có rất nhiều người đến gặp Thầy để hỏi đạo. Thầy bắt đầu lấy việc tổ chức và hướng dẫn khóa tu làm niềm vui. Nhưng ở am Phương Vân thì quá nhỏ mà nhu yếu về am Phương Vân để tu học của bà con người Việt thì càng ngày càng đông. Ở am Phương Vân chỉ đủ chỗ ở cho không quá năm mươi người. Vì vậy Thầy phải đi tìm đất mới để làm trung tâm tu học cho bà con Phật tử.
Từ Paris, Thầy đi về phương Nam nơi có nhiều nắng nhất ở nước Pháp. Vào những năm này, rất nhiều nông dân Pháp bán nhà để lên thành thị kiếm những nghề lao động khác. Trung bình mỗi mười lăm phút thì Pháp mất một người nông dân. Thầy đi xem gần mười bất động sản mà vẫn chưa có cái nào thích hợp. Cuối cùng thì đến vùng Dieulivol. Ở đây Thầy tìm được một ngôi nhà cũ có khá nhiều phòng và cửa sổ, sáng sủa rất tiện để cất giữ sách, giấy tờ và tài liệu. Thầy rất thích ngôi nhà này và đã mua lại từ một ông nhà giàu với giá là hai trăm tám mươi nghìn quan Pháp. Trước đó nó là ngôi nhà thờ Tin Lành. Nói là ông nhà giàu, nhưng thật ra cha của ông mới giàu, đến đời của ông thì chỉ biết ăn chơi, cho nên của cũng hết mà đất thì ông đem bán dần cho các tá điền. Chỉ còn lại ngôi nhà này với hơn một mẫu tây (1 hectare 10000 mét vuông) đất vườn, nhưng rồi ông cũng treo bảng bán luôn. Đó là vào ngày 29 tháng 11 năm 1978 và am Phương Khê có mặt từ đó. Sau khi có Phương Khê thì Thầy và các học trò đi đến các tiệm sách và mua rất nhiều sách Việt Nam cũ đem về đây. Tuy đã có am Phương Khê, nhưng Thầy vẫn chưa về ở hẳn. Thầy vẫn lưu lại Phương Vân. Ở am Phương Khê Thầy trồng thêm trúc và mấy cây tùng, trong đó có ba cây tùng thuộc giống Himalaya và một cây tùng bút rất đẹp làm cho vườn cảnh ở am Phương Khê nên thơ, vừa hùng dũng vừa huyền bí. Sau này am Phương Khê được đổi tên là Nội viện Phương Khê, hay còn gọi là Sơn Cốc, là nơi sinh hoạt chỉ dành riêng cho các vị xuất sĩ. Trong khóa an cư Kiết Đông, thầy trò trở về đây mỗi tuần một lần để tu học, có mặt cho nhau rất đầm ấm, gọi là Ngày Xuất Sĩ, một ngày sinh hoạt rất thân mật, nuôi dưỡng và làm lớn thêm tình huynh đệ, nghĩa Thầy trò. Thầy đã sửa sang lại thêm một số phòng nghỉ để mỗi khi các học trò của Thầy muốn có một hoặc hai tuần tĩnh tu thì có thể về đây. Trong thâm tâm các thầy, các sư chú và các sư cô, thì Sơn Cốc là “quê nội” mà họ cảm thấy rất vui, hạnh phúc mỗi khi được trở về, được rong chơi trong không khí quê hương, trong những lời dạy dỗ, khích lệ quý báu đầy tình thương của Thầy.
Đất Bụt Phương Nam
Bước sang năm 2012 chúng ta sẽ ăn mừng Làng Mai ba mươi tuổi, nhưng có thật là chúng ta chỉ có ba mươi tuổi không? Chúng ta thử đi ngược lại dòng thời gian để được lắng nghe những niềm mơ ước của Thầy và đây là một đoạn trong Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức, cuốn sách dưới dạng một bức thư mà Thầy viết cho anh Thiều (một cựu tác viên xã hội của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội): “Không những tác viên cần có một ngày trong mỗi tuần, họ còn cần có một tháng trong mỗi năm nữa. Chắc Thiều còn nhớ lá thư tôi viết để trả lời thầy Châu Toàn về dự tính Làng Hồng. Làng Hồng là một quê hương tâm linh cho người tác viên, cũng như Phương Bối là quê hương tâm linh cho chúng ta ngày xưa vậy. Chúng ta cần có Làng Hồng để trở về sau những lần đi công tác phương xa. Tại đây ta trồng cây, trồng rau thơm, đi bách bộ với trẻ con trong làng, thực tập quán niệm và thiền tọa. Thầy Châu Toàn trong một lá thư viết cho tôi đã nói tới dự tính ấy, và gọi khu làng quê hương tâm linh này là làng Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Thầy có nói cho tôi hay rằng khu vực chọn lựa có thể nằm gần miền cao nguyên và như thế có thể hạp với cây Hồng. Tôi nói như thế thì đặt tên làng là Làng Hồng nhẹ và đẹp hơn tên kia. Thầy Châu Toàn là một nghệ sĩ cho nên tôi rất tin cậy nơi thầy về khía cạnh tạo dựng vườn cảnh nghệ thuật của làng. Tôi có dặn thầy nên giữ tất cả những tảng đá lớn nhỏ có mặt trong khu đất dù dưới suối hay trên đồi và cũng dặn thầy đi đánh dấu tất cả cây lớn nhỏ nào có giá trị nghệ thuật để giữ lại. Làng sẽ có công viên, rừng và rất nhiều con đường đi bộ qua rất nhiều vườn Hồng và tên làng do đó mà có. Làng sẽ chia ra nhiều lô đất và mỗi tác viên sẽ có một lô; Thiều cũng có một lô, tôi cũng có một lô. Chúng ta sẽ làm một căn nhà đơn giản trong khu đất và trồng cây ăn trái và rau quả quanh nhà. Tôi ưa trồng rau thơm lắm. Tôi sẽ trồng sau nhà của tôi nhiều thứ rau thơm: cây ngò, cây quế, cây húng, cây tía tô, cây kinh giới, cây tần ô, cây rau răm, cây lá lốt. Tôi cũng sẽ trồng cây lá dứa thơm, cây sả, một giàn mướp ngọt, và có thể có cả một giàn hoa lý trước nhà. Thiều cười tôi đang sống với tương lai phải không? Đúng đó. Nhưng tôi cũng đang sống với hiện tại. Bên này tôi cũng trồng đủ thứ rau thơm. Tuyết có gởi cho tôi nhiều loại hạt giống nhưng chỉ trồng được vào mùa ấm thôi. Làng Hồng đối với tôi đã là một thực tại rồi. Làng Hồng cũng đã bắt đầu có mặt nơi Thiều. Thiều và các bạn nên xúc tiến việc thành lập Làng Hồng. Làng Hồng là một hình ảnh tươi mát trong lòng mọi chúng ta. Làng Hồng cũng là hình ảnh ấm áp. Các anh chị tác viên khi lập gia đình cũng nên về cư ngụ tại Làng Hồng. Làng Hồng sẽ có hợp tác xã. Mình sẽ săn sóc cho Làng. Tổ chức sinh hoạt cho trẻ con và tạo nề nếp sinh hoạt tâm linh cho mọi người. Mỗi tác viên khi về tới Làng Hồng là cảm thấy thoải mái. Trong một tháng cư trú tại Làng Hồng, người tác viên chơi đùa với trẻ con (bọn Lê Hải Thiều Âm lúc này có lẽ đông lắm), đọc sách, nằm võng, trồng rau, ngồi thiền, rũ bỏ mọi bụi bặm phiền não, luyện thêm ý chí, thêm yêu thương.” Đó là vào khoảng năm 1973. Vậy thì chúng ta đâu chỉ có ba mươi tuổi, chúng ta còn có mặt lâu hơn thế nữa. Nhưng chỉ vì thời cuộc, chiến tranh, lòng người mà chúng ta đã không tạo dựng được ước mơ của chúng ta ngay chính trên quê hương Việt Nam mà đã xây dựng một Làng Hồng trên quê hương nước Pháp. Cũng vào năm 1971, chính phủ hai miền vô hiệu hóa hộ chiếu của Thầy. Không thể trở về Việt Nam được nữa nhưng tình thương thì trước sau vẫn như một. Thầy và những người học trò của người vẫn đi khắp nơi để nói lên tiếng nói thay cho những người dân đang chạy dưới làn bom đạn.
Xóm Thượng và Xóm Hạ có mặt
Thế là Thầy tiếp tục đi tìm đất. Từ Dieulivol Thầy đi về hướng Duras và cuối cùng tìm ra được một quả đồi khá rộng ở làng Thenac thuộc xã Sigoules. Sau này Thầy đặt tên là Thệ Nhật Sơn – Pháp Vân Tự, chữ Thệ Nhật rất gần âm với chữ Thenac. Thầy rất thích miếng đất này vì nó nằm trên một cái đồi cao, buổi sáng thấy được mặt trời mọc và buổi chiều có thể ngắm được cảnh mặt trời lặn, lại có rừng cây bao bọc xung quanh rất kín đáo, yên tĩnh. Nhưng Thầy thích nhất là con đường thiền hành rất đẹp bao quanh ngọn đồi. Ông chủ cũng thích miếng đất của ông lắm vì đây là nơi “chôn nhau cắt rốn” của ông mà. Nhưng vì bị mất mùa liên tiếp mấy năm liền nên bà chủ mới nói ông bán đi để lấy vốn cho con trai lập nghiệp. Thế là ông đành treo bảng bán với giá 320 ngàn quan Pháp. Giá đắt quá, ông biết nhưng vẫn làm như vậy với niềm hy vọng là sẽ không có ai mua, một mặt cũng là vì chiều lòng bà xã. Tuy vậy, khi mình hỏi mua thì ông cũng chưa chịu bán. Chắc là ông thương mảnh đất này quá. Nhưng bà vợ ông thì nói: “Quý vị ráng đợi đi, thế nào rồi ông cũng sẽ bán.”
Trong thời gian này Thầy đã liên lạc được với anh Thiều ở trại tỵ nạn Strasbourg và có ý mời anh về đây cùng Thầy xây dựng Làng Hồng. Có lẽ anh Thiều là một trong những người học trò yêu quý của Thầy nên Thầy đã dành rất nhiều tình thương cho gia đình anh. Trong chuyện Tý – Cây Tre Triệu Đốt, Tý (là đứa con trai đầu của anh Thiều) kể rằng: “Năm ngoái khi nghe tin ba vượt biên, ngày nào Sư Ông cũng niệm Phật để hộ niệm cho gia đình Tý được tai qua nạn khỏi. Sư Ông nói Sư Ông niệm Phật trong lúc cuốc đất, giặt áo, lượm củi, trồng rau và cả khi rửa chén bát nữa. Sư Ông nói nếu ba qua được thì ba sẽ cùng với Sư Ông làm Làng Hồng.” (Lời kể của Tý – trang 43-Lá Bối in lần thứ nhất 1984). Vì vậy, không mua được Xóm Thượng, nhưng Thầy muốn tìm một nơi khác để anh Thiều làm chỗ cắm dùi. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1982 thì Thầy tìm được Xóm Hạ ở làng Loubès-Bernac, cách Xóm Thượng khoảng bốn cây số. Sau khi ký giấy mua Xóm Hạ thì vào tháng mười năm 1982 gia đình anh Thiều, từ Strasbourg về định cư ở Xóm Hạ. Gia đình anh gồm có hai vợ chồng anh Thiều, cu Tý, em Miêu, và Chó Con mới sinh ở trại Strasbourg chưa đầy một tháng, sau này Chó Con được đặt tên là Nhật Tâm, có nghĩa là trái tim mặt trời. Ngoài ra còn có anh Dũng là em nuôi của anh Thiều.
Hai tháng sau, đúng như lời tiên đoán của bà chủ, một trận mưa đá lớn đã làm hư hết nho của ông. Tức quá, ông tăng giá cao hơn nữa từ 320 lên 360 nghìn, nhưng ông vướng mắc vào mảnh đất này rồi cho nên vẫn chưa chịu bán. Nhưng mấy tháng sau, bà vợ làm áp lực cho nên ông cũng chịu bán với giá 360 nghìn quan, đó là vào tháng giêng năm 1983.
Đúng là đất ở Xóm Thượng thì chỉ toàn là đá với đá, cho nên khi sư cô Chân Không đi ra làm giấy tờ bà thư ký xã mới nói: “Tội nghiệp cho cô quá, gia đình cô sẽ chết đói. Ở đó không có nước, muốn lấy nước thì phải đi xuống cái giếng ở dưới mé rừng”. Nhưng sư cô nói: “Bây giờ đã có nước máy vào tận nhà rồi”. Bà thư ký xã nói tiếp: “Nhưng ở đó chỉ toàn là đá với đá, không trồng gì được cả, gia đình tôi đã bị chết đói ở đó”. Nhưng bà đâu có biết chỉ cần cày lên mấy luống, rồi tưới nước là trong vòng một tuần sau đã thấy mọc lên không biết bao nhiêu là rau dền. Rau dền mà nấu canh hay luộc chấm với nước xì dầu thì ngon đáo để.
Xóm Hạ có cả thảy là tám ngôi nhà, tất cả đều nằm trên lưng đồi. Nhà được xây bằng đá dày tới bảy tám tấc, mái được lợp bằng ngói âm dương. Những ngôi nhà này khoảng chừng hai trăm tuổi. Phía trước Xóm có hai cây sồi cổ thụ, mỗi cây được hơn ba trăm tuổi. Nhưng sau đó không lâu thì Làng bị bão và hai cây sồi bị trốc gốc. Cả Làng ai cũng buồn, cũng thương. Cu Tý thì vừa thương cho hai cây sồi mà cũng thương Sư Ông nữa. Nó nghĩ, Sư Ông cưng hai cây sồi này lắm. Nếu Sư Ông biết hai cây sồi đã ngã chắc là Sư Ông sẽ khóc. Giờ này Sư Ông đang ở trên Xóm Thượng, ở đó cũng có một cây đề (linden) rất lớn và nó cầu Bụt cho cây đề ấy đứng vững. Sư Ông đã không khóc như nó nghĩ, nhưng Sư Ông cũng gần khóc khi nhìn thấy cây đề quằn quại trong gió bão mà Sư Ông không làm gì được. Nhưng may thay sau đó có anh thiền sinh Scott Mayer (là nhà chăm sóc cây) tới giúp, cho nên cây đề được khỏe mạnh và đẹp hơn trước: Cây đề nằm ở trước sân Thiền đường Chuyển Hóa. Thiền đường Chuyển Hóa trước đó là một cái nhà nuôi bò và cừu, phân bò và phân cừu cao tới bụng nhưng sau đó được dọn sạch để làm thiền đường. Đến năm 1989 thì mình đã mời bạn của chị Thục Quyên là anh Ryzek, kiến trúc sư người Đức, trình bày lại phía trước và sửa sang lại như bây giờ, nhưng vẫn chưa có lò sưởi dù là sưởi củi. Đến khoảng năm 1998 – 1999 thì mình mới tô tường lại và đặt sưởi trung ương (central heating) và xây thêm nhà Tổ phía sau.
Vào khoảng năm1990, mình mua căn nhà của ông hàng xóm bên cạnh và đặt tên là Friendship Building (Tình Hữu Nghị, nghĩa của từ này gần với tên của ông chủ nhà Bonamy). Căn nhà này dùng cho thiền sinh cư sĩ lưu trú. Mình đã sửa sang lại với những phòng ngủ có nhà vệ sinh, nhà tắm riêng dành cho hai người, ba người, bốn người. Nối liền với Friendship Building là nhà Stone Building (Nhà Thạch Lang.) Những năm đầu chưa có Cốc Ngồi Yên thì Sư Ông đã ở tầng trên của ngôi nhà này. Đó là phòng Mây Trắng. Bây giờ phòng ấy đã được ngăn lại thành hai phòng là phòng Walnut và Star Flower. Chính tại ngôi nhà này Sư Ông đã viết tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng.
Xóm Đoài và Xóm Trung
Năm 1992, chính quyền sở tại nói Xóm Thượng có thể bị đóng cửa vì không đủ tiêu chuẩn sinh hoạt công cộng. Cũng vào lúc đó anh cư sĩ Chân Pháp Nhãn (Karl Schmied) và chị Thục Quyên ở Đức đã chung nhau mua một căn nhà, cách Xóm Thượng khoảng một cây số và họ sửa sang lại rất đẹp. Có thể nói căn nhà này là nhà khách “năm sao” tính vào thời điểm đó. Đến năm 2003 thì cả hai người đã cúng lại cho Làng, và mình đặt tên là Xóm Đoài. Cùng năm này mình mua Xóm Trung, còn có tên là chùa Pháp Mai, chùa này chỉ mở cửa đón khách vào dịp có khóa tu lớn, Giáng Sinh hay tết Tây. Vào mùa Hè thì dành riêng cho người Việt và các thầy, các sư cô được cử tới để chăm sóc, hướng dẫn cho Phật tử tu học. Xóm Trung nằm trên con đường đi từ Xóm Thượng xuống Xóm Hạ. Vào những khóa tu lớn, đại chúng hàng trăm người đi bộ qua lại hai Xóm để dự ngày quán niệm, trông vui như ngày hội.
Làng mở cửa
Vào ngày 15 tháng 07 năm 1983, Làng mở cửa lần đầu – Summer Opening. Thầy đã viết thư mời mọi người qui tụ về Làng Hồng lần đầu tiên. Có 117 người về tham dự. Lúc đó Xóm Thượng và Xóm Hạ, mỗi xóm chỉ có ba nhà vệ sinh cho nên các bác và các thanh niên đã giúp đào những hố tiêu khô dùng tạm. Trong số thiền sinh về Làng cũng có nhiều người còn có tri giác sai lầm. Họ nghĩ “chắc ông Thầy này là cộng sản nên đặt tên là Làng Hồng. Hồng hồng đỏ đỏ là cờ cộng sản đó mà(!) chắc là nơi thân cộng hay quy tụ cộng sản gì đây”, cho nên họ chuẩn bị đủ thứ giấy tờ, câu hỏi để chất vấn Thầy. Tuy nhiên sau khi về tu thấy người Việt cũng như người Pháp, người Anh, người Hoa Kỳ ai cũng tập thở, tập đi trong chánh niệm, ngồi nghe pháp thoại và thấy Thầy chẳng nói gì đến cộng sản, cũng chẳng dính đến quốc gia, nhưng lại dính líu đến gia đình mình mà còn chỉ cách cho mình tháo gỡ những khó khăn với vợ con mình, nên từ từ họ mến Làng, thuyết phục vợ con cùng về Làng và càng ngày càng về đông. Vì vậy mà Làng mở cửa mỗi năm một tháng vào tháng bảy để người Việt có dịp đưa con cháu của họ về Làng học văn hóa. Thiếu nhi vừa học vừa chơi một tuần là có thể có “bằng chứng chỉ văn hóa Việt Nam”, biết bà Âu Cơ là ai, vua Hùng Vương là ai, Trưng Trắc Trưng Nhị, bà Triệu, Thánh Gióng, Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi,… là ai, biết sông Hương ở đâu, sông Hồng, sông Cửu Long, sông Đồng Nai ở đâu; biết mười câu ca dao, biết mười thành ngữ Việt Nam. Tuần nào cũng có thực tập và học hỏi về truyền thống văn hóa Việt Nam: vì sao phải lạy Tổ Tiên, phải giỗ tổ tiên? Có lễ Bông hồng cài áo (là ý thức chánh niệm về sự hiện diện của Mẹ của Cha), Lễ Mừng Trăng Lên (để dạy ý nghĩa Tết Trung Thu). Không khí Làng trong những ngày Khóa tu mùa Hè thật vui, mọi người được nói tiếng Việt, được ăn cơm Việt, được mặc áo dài, áo bà ba, lại được tự tay mình cuốc đất trồng rau ngò, tía tô, xà lách, rau húng, và làm những giàn su su, bầu, mướp ngọt. Làng cũng là chiếc cầu nối giúp cha mẹ và con cái ngồi xuống để lấy đi những hố ngăn cách. Sự thay đổi môi trường và tuổi tác, mà nhất là văn hóa Tây Phương quá khác với văn hóa Việt Nam nên đã làm cho không khí trong nhiều gia đình ở hải ngoại rất nặng nề và căng thẳng. Nhờ vậy mà pháp môn Làm mới đã ra đời để giúp tháo gỡ những khó khăn và đổ vỡ ấy.
Trong lần kêu gọi đó, Thầy cũng nói đến ý định trồng mận (pruniers, plum trees) để gây quỹ cho trẻ em đói ở Việt Nam. Nếu để dành tiền túi được 15 francs là có thể trồng được một cây mận sống một trăm tuổi. Vậy là các cháu lại dành dụm tiền túi từ bố mẹ cho gửi về Làng trồng mận. Cháu nào cũng trồng năm sáu cây mận cho quỹ trẻ em đói. Các cháu trồng được tất cả là 1250 cây mận. Loại mận cho trái ngon và ngọt nhất. Không những chỉ có trẻ em Việt mà trẻ em Tây phương cũng rất hăng hái với lời kêu gọi này. Cha mẹ các cháu thì thấy đây là một việc làm có ý nghĩa và cũng là dịp để gieo trồng những hạt giống hiểu biết, thương yêu vào trong lòng các cháu cho nên rất hết lòng yểm trợ.
Thời gian trôi qua thật đẹp và bình yên. Đến năm thứ hai đầu mùa xuân, không biết từ đâu hoa thủy tiên mọc lên hàng nghìn, hàng vạn ở mé rừng bên phải Xóm Thượng, Thầy đặt tên cho mé rừng này là Pháp Thân Tạng. Vậy là Thầy lại viết thư mời mọi người về Làng dự Hội Thủy Tiên vào đầu tháng ba. Ba bốn năm sau, hoa mận đã lớn và cũng đã cho rất nhiều hoa. Vậy là bà con cũng kéo nhau về thăm Làng và thưởng thức Hội Hoa Mai. Vì ở miền Bắc Việt Nam hay gọi mận là mai (trái ô mai). Vào tháng tư, mận nở hoa trắng xoá nên thầy dạy đổi tên là Làng Mai cho hợp với thực tại. Vì vậy cho nên từ đó Làng lấy tên là Làng Mai. Bởi vì chữ Hồng có thể hiểu lầm là Làng chỉ trồng hoa hồng, cũng có thể là chỉ trồng hồng trái. (Ở Pháp người ta chỉ trồng hồng trái cho đẹp vườn nhà. Vì thế Làng chỉ trồng năm cây hồng ăn quả mỗi Xóm cho mình ăn thôi.) Xóm Hạ được Thầy đặt tên là Mai Hoa Thôn, Cam Lộ Tự.
Ngày 7 tháng 4 năm 1984 là lần đầu tiên ở Làng Mai có lễ truyền giới Tiếp Hiện, gồm có anh Lê Nguyên Thiều (nhận lại pháp danh Chơn Lễ), anh Đỗ Trọng Lễ (pd Chân Thuyên), Võ Thanh Giao Trinh (Chân Tuyền), Trương Diễm Thanh (Chân Thể), Trần Đức Minh (Chân Phong), Nguyễn Bá Thư (Chân Trí) và Lê Ngọc Ẩn (Chân Quán). Mùa Hè năm đó có chị Carole Melkonian (Chân Dung) người Hoa Kỳ, anh Robert Naeff (Chân Niệm) người Bỉ, chị Judith Bossert (Chân Sắc) người Hà Lan cũng nhận giới Tiếp Hiện.
Chúng Xuất sĩ và Cư sĩ
Trong mấy năm đầu thành lập Làng thì chưa có chúng xuất sĩ. Thầy chưa nhận đệ tử xuất gia vì chưa hội đủ điều kiện, không có thì giờ để chăm sóc và nuôi dạy đệ tử. Thỉnh thoảng cũng có quý Thượng tọa, Ni sư từ những nơi khác đến thăm. Trong số những người cư sĩ đầu tiên ở Làng thì có gia đình anh Lê Nguyên Thiều, rồi chị Chân Dung Carole Melkonian, nhưng chị Chân Dung chỉ ở một năm rồi xin trở về Mỹ và đến năm 1986-1987 gia đình anh Thiều cũng xin đi lập nghiệp ở một nơi khác. Hồi đó có chị Annabelle Laity (giáo sư cổ ngữ Đại học London), chị Thanh Minh là thuyền nhân đến năm 1987, anh Nguyễn Văn Ân cũng là thuyền nhân, sau khi nhận giới Tiếp Hiện thì có tên Chân Minh, Anh Đức chị Đoan (từ Thụy Sỹ) và chị Tịnh Thủy từ Vương quốc Bỉ qua. Nhờ tu tập có hạnh phúc mà chị đã sáng tác được một loạt những bài thiền ca xuất sắc như: Nên Hôm Nay Ta Vẫn Sống Nhẹ Nhàng, Từng Bước Chân Thảnh Thơi, Tao Ngộ, Thanh Thản Nẻo Đi Về, Xuân, Cây Sồi Năm Xưa, v.v.. Sau này có thêm bài Mở Thêm Rộng Lớn Con Đường. (Chị Tịnh Thủy đã phổ nhạc từ thơ của Thầy để tặng những người học trò đầu tiên của Thầy xuất gia trên núi Thứu). Chị Tịnh Thủy cũng là người hay “than thở” thời khóa dày quá và cuối cùng Thầy đã chế tác ra một ngày thực tập trong tuần không thời khóa gọi là Ngày Làm Biếng. Ngày đó có rất nhiều thời gian và không gian để thực tập, để chơi và làm những việc mà mình thích. Thầy dạy rằng mình phải thật sự làm biếng, đừng biến mình thành một công cụ bận rộn. Cho nên mỗi khi Thầy gặp ai vào ngày đó, Thầy ưa hỏi: “Sao! Con làm biếng đủ không?” (Are you lazy enough?). Cũng có chị Chân Hòa Evelyne Beulmes ở Hòa Lan sang, chị cũng sáng tác nhiều nhạc thiền rất xuất sắc như: The cloud, The Moon (có thể tìm thấy trong tập Mẹ Trong Lòng Người Đi). Sau đó không lâu thì có bác sĩ Lê Văn Hoàng, có anh Hoàng thì Làng cũng được nhờ rất nhiều, đặc biệt là trong những lúc có người ốm đau. Anh Hoàng dù đã tốt nghiệp Đại học Y Khoa Pháp nhưng anh lại chỉ chữa trị cho bệnh nhân theo nguyên tắc nhịn ăn, uống nước âm ấm thật nhiều và xoa bóp. Anh về Làng vì yêu và nhớ Việt Nam quá. Do vậy mà sau này đi đâu, anh cũng trồng tre khắp các Xóm. Ít lâu sau thì có bác Tư, bác Tư là người ở Làng lâu nhất, vì vậy mà ở Làng có rất nhiều người biết bác Tư. Nói chung trong mấy năm đầu thì Làng chỉ có những người cư sĩ thôi, phần đông là người Việt.
Khi mới mua đất, Sư Ông cũng đã tự tay trồng những hàng tùng và những cây tùng lọng, bây giờ chúng đã to lớn, khỏe mạnh trông rất hùng. Mỗi lần có dịp đi dạo quanh Xóm Thượng, Sư Ông hay chỉ cho các thầy, sư cô, và sư chú các cây tùng ấy và nói: “Các cây tùng này là những đệ tử rất giỏi, rất trung kiên của Thầy, là các sư anh của các con đó. Các con nên thỉnh thoảng tới thiền ôm các sư anh của mình để hưởng năng lượng vững chãi và trung kiên từ các sư anh. Các sư anh đã chứng được quả vị an trú, một trong bốn quả vị tu chứng của Làng Mai.” Sự có mặt của thầy Giác Thanh thường trú trong chúng cũng là một trường hợp đặc biệt. Thầy đã bôn ba nhiều nơi, tới với nhiều truyền thống thiền để học đạo, nhưng không thành công lắm. Khoảng năm 1987-1988 thầy đã được gặp Sư Ông lần đầu, nhưng thầy chỉ chào hỏi ngắn ngủi rồi ra. Thầy đã đến những trung tâm thiền tập lớn của Hoa Kỳ. Thầy đã từng tu miên mật ở trung tâm tu thiền của truyền thống Đại Hàn, Providence Zen Center. Ở trung tâm này, họ tu rất gắt: thức dậy 3 giờ sáng, ngồi thiền một giờ, lạy 108 lạy, kinh hành rồi ngồi thiền 1 giờ rồi lạy 108, ăn cơm vội vàng,… rồi lại lặp lại ba sinh hoạt tu tập đó cho đến 11 giờ khuya mới nghỉ. Thầy đã cố gắng, ép mình thái quá nên cái đầu của thầy bị lắc lắc mỗi khi thầy nhắm mắt vào thiền. Sau này thành dị tật. Cũng không có kết quả. Thầy lại bôn ba tìm thầy học đạo. Hôm đó thầy đi Canada thăm gia đình, Thầy gặp lại Sư Ông trong một khóa tu tổ chức tại Montreal, Canada. Trong khóa tu này thầy được đi thiền và ngồi chơi ngoài trời với Sư Ông và đại chúng. Trong buổi ngồi chơi ngoài trời ngắm mùa thu rực rỡ sắc màu, đại chúng hát bài “Thu Đẹp Vẫn Còn Hoài” do Sư Ông sáng tác dựa trên điệu nhạc dân ca Pháp; khi nghe bài nhạc đó thầy tự nhiên cảm thấy thân tâm nhẹ nhõm, thoái mái và an vui lạ thường. Sư Ông nói với thầy: “Này thầy Giác Thanh, tu tập đâu cần phải lao tác mệt nhọc để cầu giải thoát, giác ngộ trong tương lai. Tu là phải có an lạc và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Tất cả những cái thầy đang tìm kiếm đều đang có mặt ngay đây và bây giờ, không cần nhọc tìm đâu xa. Thầy thấy mùa thu có đẹp không? Đạo, giải thoát, giác ngộ đang nằm sờ sờ đó.” Từ đó thầy đã ngộ ra và thu xếp về ở luôn với Làng. Thầy được bổ nhiệm trú trì thiền đường Hoa Quỳnh tại Paris mà sau này đã đổi tên là trung tâm thực tập Hơi Thở Nhẹ. Năm 2000 thầy được Sư Ông và đại chúng bổ nhiệm làm trú trì Tu viện Lộc Uyển. Một năm sau thầy thị tịch vì căn bệnh tiểu đường đã khá lâu. Ở Xóm Thượng thầy có cái cốc gần bên thất Ngồi Yên, gọi là cốc Phù Vân.
Ở Làng mãi tới khoảng năm 1999-2000 mới có hệ thống sưởi trung ương (central heat), trước đó chỉ có sưởi củi và các thầy, các sư cô vào mùa thu và đông nào cũng bổ củi. Công việc ấy đã trở thành một sự thực tập rất vui trong đời sống hàng ngày của tu viện. Thiền đường Nước Tĩnh đã được xây dựng vào năm 1985, tới năm 1988 mới hoàn tất. Từ năm ấy tới năm 2009 – 2010 mới trùng tu lại và lần này là do những bàn tay của các thầy, sư chú tự làm, thỉnh thoảng có sự trợ giúp của các sư cô từ các xóm và các vị cư sĩ. Cho nên công trình trùng tu thiền đường Nước Tĩnh được thực hiện với nhiều niềm vui và tình huynh đệ. Thiền đường Nước Tĩnh bây giờ không còn phải sưởi bằng lò củi như trước nữa mà đã có hệ thống sưởi nền rất tốt, ấm mà ít hao tốn điện. Thất Ngồi Yên cũng được sửa sang lại đẹp hơn, ấm hơn vì có sưởi nền.
Xóm Mới và Sơn Hạ
Năm 1999 bác Mounet mất, nhà bác ở đầu thôn Hạ. Sau đó đứa con trai của bác cưới một cô vợ người Cao Miên, nhưng vì duyên nợ tiền kiếp như thế nào ấy khiến anh đổi tánh hoàn toàn. Anh thường gây khó khăn cho Làng, cứ liên tục đâm đơn đi kiện. Cuối cùng nhờ anh Chân Hộ Tăng (Pritam Singh) ở Mỹ mua giúp ngôi nhà đó, nên mình mới được yên; đó là căn nhà Cherry House bây giờ. Nhà Cherry House đã mua rồi nhưng nhưng chưa sửa sang gì cho nên chưa được đẹp lắm.
Sau khi nghe tin Làng có thêm Sơn Hạ thì anh Chân Hộ Tăng có ý muốn mua một ngôi nhà ở gần Xóm Thượng, sau này xong công việc kinh doanh thì sẽ sang Làng ở để có thể tu tập và làm những việc mà anh thích. Anh đã nhờ sư cô Chân Không hỏi mua một ngôi nhà gần đó, nhưng sau đó kinh tế xuống, anh không giải quyết được công việc kinh doanh bất động sản của anh, còn mình thì không đi lui được vì đã ra hành chánh rồi, vì vậy cuối cùng mình cũng mua luôn. Đó là nhà Tây Hồ bây giờ nằm ở hướng tây của Sơn Hạ.
Tu Viện Rừng Phong và Thanh Sơn Miền Đông Hoa Kỳ
Tu Viện Lộc Uyển Miền Tây Hoa Kỳ
Những Năm Đầu Sinh Hoạt của Làng Mai
___________
Nguồn: Làng Mai