Hòa Thượng Thích Như Điển | Ảnh: Quảng Pháp
Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc | Dedication for Most Venerable Thich Nhu Dien on the ceremonial event of his 70th birthday, and 40 year-milestone for Vien Giac Temple to be established in Germany.
“Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006.
Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng”
“Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa),
Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)”
Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
Trong cây có hoa đó là Nhân, nhưng phải nhờ có Duyên nữa mới có hoa (Quả) duyên ở đây bao gồm sự chăm sóc từ bàn tay của con người và đợi đến khi gặp thời tiết thích hợp thì cây mới ra hoa. Ví dụ như hoa Anh Đào Nhật Bản hay hoa Vạn Thọ của Việt Nam, đến mùa Xuân mới có hoa, nhưng nếu ta không chăm sóc, không bón phân, không tưới nước thì sẽ khó để có được những bông hoa tươi đẹp.
Trong đá có lửa là Nhân, nhưng cần phải có Duyên tác động vào thì mới giúp đá phát ra lửa (Quả), duyên ở đây là hai viên đá phải cọ xát với nhau mới có lửa, nếu đặt hai viên đá xa nhau, mãi mãi sẽ không bao giờ có lửa. Ý của Ngài ở đây là muốn nhấn mạnh “Trong chúng sanh có Phật tánh”, nhưng Phật tánh này đang bị lớp bụi dày đặc của vô minh che phủ từ vô thỉ, kiếp này ta cần phải phủi bụi trừ dơ, làm sạch lớp bụi vô minh kia, mới mong Phật tánh của ta hiển lộ, ta phải tinh tấn, tu tập miên mật, liên tục không ngừng nghỉ cũng giống như ta mài 2 viên đá để cuối cùng phát ra lửa vậy, nếu ta mài vài cái và bỏ ngang thì lửa sẽ không bao giờ có, nếu ta giải đãi, không thường hằng tinh tấn thì mãi mãi ta không bao giờ nhìn thấy Phật tánh của mình hiển lộ.
“Trong cây có hoa, trong đá có lửa” là hình ảnh tiêu biểu và gắn liền trong cuộc đời tu tập và hoằng Pháp của Hòa Thượng Thích Như Điển. Ngài luôn là tấm gương sáng ngời về sự tinh tấn dõng mãnh trên đường đạo cho những người hậu học.
Bản thân tôi từng có duyên may theo chân làm thị giả cho Hòa Thượng trong các chuyến hoằng Pháp ở Hoa Kỳ, từng viếng thăm Chùa Viên Giác của Ngài nhiều lần, cũng như được hầu cận, tiếp xúc trong những dịp Ngài ghé thăm bổn tự, nên chứng kiến và biết được mọi sinh hoạt tu tập của Hòa Thượng. Đặc biệt nhất là trừ trường hợp ngã bệnh, ngoài ra trong suốt 55 năm tu tập của mình, dù ở bất cứ nơi nào Ngài chưa bao giờ bỏ thời công phu buổi khuya.
Phái đoàn Hoằng Pháp của HT Như Điển ở Chùa Đức Viên, San Jose, Miền Bắc California
Hòa Thượng Như Điển còn nổi tiếng về hạnh nguyện lạy Phật, vì lạy Phật là một phương pháp sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và cũng là phương cách làm cho thân tâm mình được gạn lọc sạch sẽ qua thân, khẩu và ý nghiệp. Hòa Thượng đã phát nguyện lạy bộ Ngũ Bách Danh với 500 danh hiệu của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát; rồi 3.000 lạy của bộ Tam Thiên Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Sau đó Ngài phát nguyện lạy Kinh Vạn Phật, trên 10.000 lạy. Tiếp đó, vào những mùa An Cư Kiết Hạ, Ngài đã phát nguyện lạy Kinh Pháp Hoa mỗi chữ mỗi lạy, tổng cộng có trên 70.000 lạy; hiện nay Ngài và đại chúng Viên Giác cũng đang tiếp tục lạy Kinh Đại Bát Niết Bàn gồm 2 quyển. Ngài nói rằng từ năm 1984 đến nay, trong các mùa An Cư Kiết Hạ, mỗi đêm Ngài lạy từ 250 đến 300 lạy. Quả thật đây là một công hạnh khó ai theo kịp trong thời đại này. Ngài cũng hay tâm sự với đại chúng “Cũng nhờ tụng kinh và lạy Phật mà bản thân tôi làm được nhiều Phật sự như ngày hôm nay”. Và có lẽ nhờ công đức tu tập của Hòa Thượng mà mọi Phật sự trong cuộc đời của Ngài đều thông suốt và viên mãn.
HT Như Điển hiện là Đệ Nhị Chủ Tịch Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu và là Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh của Giáo Hội Tăng Già Thế Giới (trụ sở đặt tại Đài Loan). Ngài sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, và xuất gia đầu Phật năm 1964 tại Tổ Đình Phước Lâm, Hội An. Thọ Sa di năm 1967 tại Giới đàn Chùa Phổ Đà, Đà Nẵng, được Bổn Sư là Cố Hòa Thượng Thích Long Trí ban cho pháp tự là Giải Minh. Năm 1971, Ngài thọ Tỳ Kheo giới tại Giới đàn Tu Viện Quảng Đức, Thủ Đức. Năm 1972, được trợ cấp học bổng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Nam với sự đồng thuận của Giáo Hội Trung Ương qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Thích Huyền Quang và cố Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Thích Thiện Hoa lúc bấy giờ, Ngài đã đến Nhật du học. Sau 9 tháng học nhảy 3 khóa Nhật ngữ và đã đậu vào Đại học Teikyo (Đế Kinh) tại Tokyo ngành giáo dục học. Đến tháng 2 năm 1977, Ngài đã ra trường với luận án tốt nghiệp tối ưu và tiếp tục thi đỗ vào Cao Học Phật Giáo tại Đại học Risso (Lập Chánh) tại Tokyo, và chỉ học ở đây một thời gian ngắn. Ngày 22/4/1977, Ngài đến Đức quốc với Visa du lịch, nhưng sau đó xin tỵ nạn và ở lại Đức từ đó cho đến nay, chưa có cơ hội trở về thăm quê hương. Ngài đã ở tại Kiel một năm để học tiếng Đức tại Đại học Kiel, sau đó dời về thành phố Hannover để học tiếp ngành giáo dục hậu Đại Học. Vào ngày 15/4/1978, Ngài thành lập Niệm Phật Đường Viên Giác tại Hannover. Năm 1988 được tấn phong lên hàng Giáo phẩm Thượng Tọa tại Giới đàn chùa Pháp Hoa Marseille, Pháp quốc. Ngày 28/6/2008, tại Đại Giới Đàn Pháp Chuyên được tổ chức tại chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, Ngài đã được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tấn phong lên Giáo phẩm Hòa Thượng. Ngày 8/7/2011 tại Colombo, Tích Lan, Hội Đồng Tăng Già Tích Lan đã phát giải thưởng cao quý cho HT Thích Như Điển và HT Thích Minh Tâm về việc truyền bá giáo lý Phật Đà khắp năm châu chính Thủ Tướng Tích Lan trao tặng. Hòa Thượng cũng là người sáng lập Chi Bộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đức Quốc, thành lập Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại Đức từ năm 1978, 1979. Hiện nay tại Đức có 15 ngôi chùa, hơn 70 vị xuất gia. Có 23 Chi Hội và 7 Gia Đình Phật Tử.
Năm 2019 cũng là năm kỷ niệm chu niên 40 năm thành lập chùa Viên Giác và 40 năm thành lập Hội Phật Tử VNTN tại Cộng Hòa LB Đức. Hiện tại Chùa Viên Giác, Hannover đã trải qua 3 đời trụ trì như sau: Khai sơn sáng lập Trụ Trì từ năm 1978 đến năm 2003: Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển, thuộc dòng phái Thiền Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41. Kế tục đời Trụ Trì thứ nhất là Thượng tọa Thích Hạnh Tấn, từ năm 2003 đến 2008, đệ nhị Trụ Trì là Đại Đức Thích Hạnh Giới, từ năm 2008 đến 2017; đệ tam Trụ Trì từ 2017 đến nay là Đại Đức Thích Hạnh Bổn.
Chùa Viên Giác, là một ngôi chùa nổi tiếng trong hiện tại, đã chính thức được khởi công xây dựng vào năm 1989, khánh thành năm 1991 và lễ hoàn nguyện vào năm 1993 với tổng kinh phí xây dựng là 9.000.000 DM, tương đương với 4.500.000 Euro (5.000.000 USD). Tất cả đều do công đức của quý Phật Tử Việt Nam trong và ngoài quốc gia Đức đóng góp cúng dường. Ngoài ra chính quyền tiểu bang Niedersachsen cũng như Bộ Nội Vụ Cộng Hòa Liên Bang Đức trợ giúp về lãnh vực văn hóa của Tôn Giáo suốt trong thời gian 26 năm hội nhập (1979-2005) về những phương diện như: In ấn báo Viên Giác, kinh sách, hội thảo, văn nghệ v.v…
Mỗi năm Chùa Viên Giác đều có nhiều sinh hoạt Phật sự khác nhau cho người Việt đồng hương và người Đức như: Đại Lễ Phật Đản, Đại Lễ Vu Lan, lễ Hội Quan Thế Âm, Tết, Rằm Tháng Giêng cũng như những khóa tu học ngắn hạn hoặc dài hạn trong vòng từ 2 ngày đến 3 tháng. Số người Việt đi lễ chùa Viên Giác hằng năm độ 80.000 người và đặc biệt có khoảng 40.000 người Đức về chùa làm quen với Đạo Phật.
Có thể nói Chùa Viên Giác là ngôi chùa Việt Nam được thành lập đầu tiên tại xứ Đức và đã trở thành ngôi Tổ Đình của môn phong pháp phái Chúc Thánh nói riêng cũng như cho Phật Tử Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức nói chung.
Không những chỉ hoằng Pháp tại Đức mà vai trò hoằng pháp của HT Như Điển còn mở rộng ra bên ngoài xứ Đức. HT Như Điển nổi tiếng là một Tăng sĩ VN hải ngoại có thể giữ kỷ lục tham quan nhiều quốc gia nhất, gồm 73 nước tính từ sau năm 1975 cho đến nay 2018, trong đó nổi bật nhất là các quốc gia Âu Châu, Đông Âu, Bắc Âu, Hoa Kỳ, Canada và Úc Châu là những nơi Ngài thường xuyên lui tới để hoằng Pháp.
Một quốc gia quen thuộc với Ngài nhất, đó là Úc Châu, vì rằng xứ sở Kangaroo này có sự hiện diện của bào huynh Ngài là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc (hiện là Hội Chủ GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan) và đặc biệt là có vị Giáo Thọ Sư của Ngài, đó là Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ (1934-2016), là Hội Chủ lãnh đạo GH Úc Châu trong 16 năm từ 1999 đến 2015. Có thể nói do công đức giới thiệu của HT Như Điển từ lúc ban đầu mà HT Như Huệ đã được Cộng Đồng PTVN tại Adelaide, Nam Úc cung thỉnh Ngài sang Úc định cư và làm việc cho đến ngày viên tịch.
Theo lời kể của Hòa Thượng, Ngài đến Úc lần đầu tiên vào năm 1979 do Hội PGVN New South Wales mời qua thuyết giảng và cố vấn cho Hội cách sinh hoạt, trong dịp này Hòa Thượng đã hướng dẫn thành viên Hội đóng góp định kỳ $10 Úc kim hằng tháng hoặc cho mượn Hội Thiện để Hội có kinh phí sinh hoạt và thuê mướn cơ sở.
Sau đó vì có bào huynh của Ngài là HT Thích Bảo Lạc, Trụ Trì chùa Pháp Bảo ở Sydney, Úc Châu, cho nên từ năm 2003, sau khi Ngài lên ngôi Phương Trượng Chùa Viên Giác, mỗi năm 3 tháng vào mùa Đông giá lạnh tại Đức, Ngài đã rời Đức quốc đi Á Châu (Thái Lan và Ấn Độ) một tháng. Còn lại 2 tháng Ngài đã đến Sydney Úc Châu thăm HT Thích Bảo Lạc, rồi lên núi đồi Đa Bảo để tĩnh tu nhập thất trong suốt 2 tháng liền, cho đến năm 2012 là đúng 10 năm. Trong 10 năm đó, những lần ở trên vùng núi đồi Đa Bảo tại Campbelltown hay Blue Mountain, đều là những ngày tháng vui khỏe, an lạc lạ thường của Ngài. Ngoài thời gian dành để viết hoặc dịch kinh sách, có lúc Ngài cũng cùng HT Bảo Lạc đi thăm thú đó đây quanh nước Úc, như cuối năm 2006, Ngài đi thăm Darwin, Perth, Alice Spring và núi đá đỏ Uluru. Và lúc đó trong một cuộc điện đàm thăm hỏi, Ngài đã cho biết rất mãn nguyện khi được viếng thăm núi thiêng Uluru, được xem là kỳ quan của xứ Úc.
Nhìn toàn cảnh Uluru, người ta sẽ thấy đó là khối đá khổng lồ và bóng nhẵn, tạo thành một khối thống nhất, trên khắp núi không có bất cứ loại cây cỏ nào. Chiều cao của Uluru lên tới 348m, dài 3km, chu vi chân núi khoảng 8,5km. Với kích thước lớn như vậy, nhìn xung quanh ngọn núi thiêng, du khách thấy mọi vật trở nên nhỏ bé. Một trong những điều kỳ lạ ở Uluru chính là khả năng tự biến đổi màu sắc tùy theo thời gian và thời tiết trong ngày như đỏ sẫm, vàng cam, xanh thẩm hay tím. Tảng đá thiêng tuổi đời 600 triệu năm thường mang màu đỏ sẫm đặc trưng, nhưng khi thời tiết thay đổi, màu sắc của nó cũng biến đổi theo.
Rồi cuối năm 2010, tôi đã mời HT viếng thăm Tasmania ngay sau khi Ngài tham dự và giảng dạy tại Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 9 ở Sydney. Ngài và đệ tử thị giả của Ngài là ĐĐ Hạnh Định phải xuống Melbourne để cùng tôi và chú đệ tử người Úc, Quảng Từ Chris Dunk lên tàu Spirit Tasmania để bắt đầu chuyến tham quan. Tôi chọn Tasmania để mời Hòa Thượng tham quan Port Arthur, là một thị trấn nhỏ và là nhà tù cũ trên bán đảo Tasman, vì trong năm 2010, báo chí Úc đưa tin UNESCO đã chính thức ghi nhận địa điểm Port Arthur là di sản của thế giới, với 11 địa danh còn lại thuộc chuỗi nhà tù do đế quốc Anh xây dựng trong thế kỷ 18-19. Cho đến ngày nay, Port Arthur là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng nhất của Úc, thu hút được hơn 250.000 du khách mỗi năm.
Trong thời gian tham quan Tasmania, tôi và Hòa Thượng đã bàn thảo với nhau về nhiều vấn đề như sinh hoạt Phật sự trong GH, hoằng pháp và đặc biệt là chương trình dịch sách chung với nhau trong tương lai gần. Không ngờ sau chuyến viếng thăm đó, Thầy trò chúng tôi đã bắt tay vào việc ngay, hợp dịch 2 tập sách từ Anh Ngữ sang tiếng Việt. Lúc đầu tôi thỉnh Hòa Thượng dịch chung tác phẩm “Buddha & His Principal Disciples’s Relica” (Xá Lợi của Phật & Chư Vị Đại Đệ Tử của Ngài), nhưng sau đó phát hiện đã có người dịch tác phẩm này nên tôi thỉnh Hòa Thượng cùng dịch tập sách “Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ, nguyên tác Anh ngữ “Peaceful Death, Joyful Rebirth” của Lạt Ma Tây Tạng, Tulku Thondup (thuộc phái Phật Giáo Nyingma). Sách dày 515 trang, tôi dịch từ chương 1 đến chương 5, Hòa Thượng dịch từ chương 6 đến chương 10 và 2 phụ lục. Tôi chọn dịch sách này vì muốn cống hiến thêm cho kho tàng văn khố PGVN có thêm 1 tài liệu khác về PG Tây Tạng, vì cuốn sách này gạn lọc trí tuệ hàng ngàn năm của Phật Giáo Tây Tạng, trình bày những giáo lý cốt lõi về Thiền, Mật tông và Tịnh độ, không chỉ có tính cách chữa trị sự đau khổ và vô minh của chúng ta về sự chết và sự hấp hối mà còn giúp chúng ta chứng đạt mục tiêu an lạc vô thượng, không những cho đời này mà còn cho sự chết và cõi bên kia nữa. Tập sách thứ 2, tôi dịch chung với HT Như Điển và đã phát hành vào dịp Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 17 tại Portsea, Úc Châu (tháng 12-2017) là “Thiền Quán về Sống và Chết, Cẩm Nang Hướng Dẫn và Thực Hành” (The Zen of Living and Dying – A Practical an Spiritual Guide), tôi dịch từ đầu sách đến trang 136 và Hòa Thượng dịch từ trang 137 đến cuối sách trang 251, nguyên tác Anh ngữ là của Thiền Sư người Mỹ, Philip Kapleau (1912-2004), Ngài cũng là tác giả của tập sách nổi tiếng The Three Pillars of Zen (Ba Trụ Thiền). Tôi trình với Hòa Thượng về lý do chọn dịch tập sách này là có liên quan đến xứ sở Nhật Bản nơi Hòa Thượng từng du học từ 1972 đến 1978, và Lão Sư Philip Kapleau là đệ tử của Thiền Sư Bạch Vân (Nhật Bản), ông cũng đã đến Nhật vào tháng 3 năm 1047, làm thư ký Tòa án cho Quân sự Quốc tế tại Tokyo để xử các tội phạm chiến tranh thế chiến thứ 2. Ông so sánh với các phiên xử những tội phạm khủng bố của phát xít Đức ở Nuremberg thì phiên xử ở Tokyo dễ chịu hơn, ít căng thẳng hơn. Vì người Nhật biết chấp nhận hậu quả chiến tranh với sự điềm tĩnh và tự kiềm chế. Qua tìm hiểu, Kapleau biết rằng người Nhật chấp nhận quả khổ này là dựa trên “Luật nghiệp quả báo ứng” (The law of karmic retribution). Khái niệm về luật nhân quả này được hoạt động trên bình diện đạo đức kích thích sự chú ý của Kapleau, vì nó ngược lại hoàn toàn với sự tự bào chữa rất thường nghe ở Đức. Với sự tò mò về vấn đề nghiệp báo, cuối cùng Kapleau quy hướng PG và sau đó bỏ ngang công việc và phát tâm xuất gia tu học theo PG Nhật Bản.
HT Như Điển, HT Hạnh Tuấn và TT Nguyên Tạng dự Đại Hội Gia Đình Phật tử tại San Jose tháng 3 năm 2011
Trước đây đã có rất nhiều sách báo viết về sự chết và hấp hối rồi, tại sao lại có thêm một cuốn sách nữa về sự chết và hấp hối nữa để làm gì? Mục đích chính của cuốn sách “Thiền Quán về Sống và Chết” là giúp người đọc học cách sống một cách trọn vẹn với sự sống ở mọi thời điểm và chết một cách an lạc khi cái chết xảy đến. Sự chấp nhận này còn làm cho chúng ta sẵn sàng đối diện với cái chết một cách can đảm và tiếp nhận những gì liên quan đến cái chết ban cho mình, đó là cách thức thay thế cái thể xác cũ mòn, đau đớn này bằng một thân xác mới, và hơn nữa đây là cơ hội độc nhất trong đời sống này để chứng nghiệm giải thoát giác ngộ. Cả hai dịch phẩm của hai Thầy trò, HT Như Điển đều vận động và ủng hộ ngân quỹ để ấn tống rộng rãi tại Đức, Úc và Hoa Kỳ. Con xin niệm ơn Hòa Thượng đã cho con có cơ hội cùng làm việc chung với Ngài để có được 2 đứa con tinh thần giá trị này.
Chúng ta còn được biết trong khoảng thời gian mười năm, chỉ với những lần đến Úc tĩnh tu mà Hòa Thượng đã có thêm 20 tác phẩm, dịch phẩm trong kho tàng văn khố của Ngài gồm khoảng 65 đầu sách. Đồng thời trong những năm này, HT đã tích cực đóng góp cho sự lớn mạnh của các Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu tại Úc.
Nói chung, Úc Châu là nơi Hòa Thượng đến thăm thường xuyên nhất trong đời của Ngài, Ngài từng kể tôi nghe, chỉ riêng để đến Úc Ngài đã trải qua hơn triệu cây số đường bay, vì chuyến bay từ Hannover đến Sydney là 35.000 cây số, nếu đem con số này nhân cho trung bình 38 lần bay của 38 năm (từ 1979 đến 1917) thì đã là 1.292.000 cây số rồi.
Một quốc gia khác mà HT Như Điển thường đến hoằng Pháp sau Úc Châu phải nói là Hoa Kỳ, quả thật từ năm 1979, Ngài đã bắt đầu đi Hoa Kỳ và đến nay 2018 trong gần 40 năm liên tục, HT đã có trên 50 lần đến quốc gia này để làm Phật sự, điều ấy có nghĩa là mỗi năm một lần và nếu có năm không đi Hoa Kỳ thì bù lại có năm đi 2, 3 lần để thuyết giảng, hay tham dự lễ khánh thành hoặc dự lễ tang của chư Tôn Đức.
“Hoằng Pháp thị gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp”, nghĩa là: “Hoằng dương giáo lý Phật Đà là việc nhà của người xuất gia và việc giúp đời, giúp người là sự nghiệp của những người xuất thế”. Người viết có duyên may được Hòa Thượng cho phép tháp tùng trong Phái Đoàn Hoằng Pháp của Ngài tại Hoa Kỳ từ 2006 đến 2012 (mỗi năm từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 5), về sau này vì bận Phật sự tại bổn tự nên chúng tôi không tham dự nữa. Trong phái đoàn lúc đó thường có 10 vị, gồm có HT Như Điển (Trưởng Đoàn), TT Đồng Văn, TT Nguyên Tạng, TT Thông Triết, TT Hạnh Đức, TT Giác Trí, ĐĐ Thánh Trí, ĐĐ Thiện Đạo, ĐĐ Hạnh Thức, ĐĐ Viên Giác, ĐĐ Hạnh Tuệ, NS Minh Huệ…Hòa Thượng phân công cho chúng tôi mỗi vị giảng một đề tài chuyên môn theo khả năng khác nhau về cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền, về Thiền, Tịnh, Mật… tùy theo thính chúng mà uyển chuyển. Những địa phương mà Phái Đoàn đã đi gồm Nam Cali (Chùa Bát Nhã, Chùa Phật Tổ, Đạo Tràng Mắt Thương Nhìn Đời, Thiền Đường Ngọc Sáng, Liên Trì, Hiền Như Tịnh Thất…) và Bắc Cali (Chùa Đức Viên, Chùa An Lạc, Chùa Đại Nhật Như Lai, Chùa Kim Quang, Tịnh xá Quan Âm, NPĐ Fremont, Tịnh Thất Hòa Bình, Đạo Tràng Từ Bi Nguyện, Nhà Hàng Andy Nguyễn…) rồi từ đó đi Las Vegas (Chùa Liên Hoa, Chùa Phổ Quang..). Tiếp theo là Houston (Chùa Trúc Lâm, Chùa Phước Đức, Chùa Từ Bi…) Từ Houston đi Austin (Chùa Liên Hoa). Tiếp đến đoàn về Oklahoma (TV Chánh Pháp) rồi đi Philadelphia (Chùa Linh Quang, Chùa Phật Bảo, Chùa Hoa Nghiêm..). Tiếp đến đi Atlanta (Chùa Hải Ấn, Chùa Tây Phương, Tư gia Đạo Hữu Thị Phước); từ Atlanta bay đến Chicago (Chùa Trúc Lâm, Chùa Quang Minh, Chùa Phước Hậu…), rồi đi Michigan (Chùa Linh Sơn, Chùa Pháp Lâm, Chùa Việt Nam (St. Louis) , Chùa Quan Âm, Chùa Tịnh Tâm và Jacksonville (Chùa Hải Đức). Từ Jacksonville đi Orlando hay Gainesville. Điểm cuối cùng là Minneapolis (Chùa Phật Ân và Tu Viện Tây Phương). Từ đó bay sang Montreal, Canada (Tổ Đình Từ Quang, Chùa Quan Âm, Chùa Hiếu Giang, Chùa Từ Ân…)
Nếu chư Tôn Đức trong đoàn không có sức khỏe thì không ai có thể chịu đựng được trong 10 tuần lễ đi và làm việc liên tục như vậy. Phần lớn những thành phố, những tiểu bang mà phái đoàn đến là những nơi có chùa mà không có Tăng Ni lưu trú, trụ trì nên Phật tử cư sĩ những nơi này tha thiết cầu học giáo pháp để làm hành trang trên bước đường tu tập giải thoát. Đoàn cũng đã được báo chí tại địa phương Santa Ana phỏng vấn như Báo Viễn Đông, Báo Sài Gòn Times về hiện tình của GHPGVNTN cũng như việc hoằng pháp của Đoàn. Ngoài ra đài phát thanh ký giả Kiều Mỹ Duyên, anh Trọng Nghĩa và chị Mộng Lan cũng đã trực tiếp phỏng vấn Phái đoàn về nhiều lãnh vực khác nhau trên con đường hoằng pháp. Đài truyền hình Việt Nam tại San Jose – Cali Today do anh Nam làm giám đốc, cũng đã phỏng vấn và thu hình trực tiếp Phái đoàn về những việc liên quan với Giáo Hội cũng như Đoàn Hoằng Pháp. Hoằng Pháp là bổn phận, lợi sinh là sự nghiệp, đó là mục đích của hàng đệ tử Phật, có thể nói mọi công việc hằng ngày của người xuất gia không đi ra ngoài công việc trên, vừa tu tập cho mình và mang ánh sáng giác ngộ, từ bi và trí tuệ đến cho người để giúp người bớt khổ tìm được nguồn vui.
“Nhân sanh thất thập cổ lai hy”
“Bảy mươi tuổi xưa nay đã hiếm
Sống trăm năm có được mấy người
Dẫu rằng trăm tuổi được thôi
Nhịp cầu sanh tử ai rồi cũng qua
Trong biển khổ ái hà bơi lội
Kể xiết bao nhiêu nỗi thăng trầm
Tranh giành cuộc sống trăm năm
Càng hơn càng chán móng mầm vô minh”.
Thật vậy, người thế gian sống qua cái tuổi xưa nay hiếm, tuy có may mắn nhưng họ vẫn còn tiếp tục quanh quẩn trong thế sự thăng trầm, đau khổ và hụp lặn trong danh vọng, địa vị, cơm áo, gạo tiền… chưa có ngày nào được chút thong thả, nhẹ nhàng và an lạc. Còn đối với HT Như Điển, sắp tới đây Ngài cũng bước sang tuổi 70, nhưng có thể nói rằng trong 70 năm trụ thế, 55 năm xuất gia tu tập hoằng pháp, 40 năm xây dựng đạo tràng Chùa Viên Giác tại Đức và 40 năm chung tay lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp trên khắp thế giới của Ngài, là một hành trình dài trọn vẹn, đẹp đẽ, thông suốt và mầu nhiệm. Kỳ thật, cuộc đời của Ngài quả là một tấm gương sáng chói, cả về đạo hạnh lẫn sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Ngài luôn thể hiện nếp sống của bậc chân thật học, thiểu dục tri túc, giới đức tinh nghiêm, gắn liền đời sống tu tập của mình với sự nghiệp trước tác, phiên dịch, ấn tống kinh sách, xuất bản báo Viên Giác, dạy dỗ Tăng chúng duy trì nếp sống thiền môn quy củ, hoằng pháp lợi sinh, tạo dựng đạo tràng, bảo tồn văn hóa dân tộc. Ngài đã hóa độ 45 đệ tử xuất gia và hơn 7.000 đệ tử tại gia, ai ai cũng thọ nhận được pháp lạc vi diệu từ nơi giáo hóa của Ngài. Không có ngôn ngữ nào có thể mô tả hết sự nghiệp giáo hóa độ sanh của Ngài. Được biết chúng đệ tử thân thương của Chùa Viên Giác, Hannover, Đức quốc đang chuẩn bị mọi thứ để kính mừng Ngài thượng thọ thất tuần vào mùa Hè năm 2019, chúng con xin mạo muội viết đôi hàng này để tán dương công hạnh của Ngài, đã tận hiến cả cuộc đời của mình cho công cuộc hoằng pháp lợi sinh nơi xứ người. Chúng con đê đầu đảnh lễ Ngài, kính chúc Ngài pháp thể khinh an và pháp duyên vô ngại.
Nam Mô A Di Đà Phật
Viết tại Tu Viện Quảng Đức, Mùa An Cư 2018
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng
Within a tree, there is a flower
Within a rock, there is a flame
Dedication for Most Venerable Thich Nhu Dien on the ceremonial event of his 70th birthday, and 40 year-milestone for Vien Giac Temple to be established in Germany
Bhikhhu Thích Nguyên Tạng
Translated into English by: Dr Tâm Tịnh, Hoa Chí & Hoa Nghiêm
“Within a tree, there’s a flower, within a rock, there’s a flame” is the dharma taught by Zen Master Dao, recalled by Most Venerable Thich Nhu Dien during his dharmic teachings to which I had good fortune to attend in his dharma-propagating journey to the United States of America in 2006 when I acted as an assistant to him.Zen master Dogen, a Japanese, was born in 1200 and reached parinirvana in 1253, when he was 53 years-old. He was the first patriarch of Soto-Zen), also an author of the popular book titled, “The Right Dharma Eye Treasury”. He educated, “Ki no naka ni, hana ga aru (Within a tree, there’s a flower);Ishi no naka ni, hi ga aru (Within a rock, there’s a flame), was translated into Vietnamese by Most Venerable Thich Nhu Dien. The verses sound extraordinary. They are succinct, but well associated with profound Buddhist knowledge on causes, conditions and fruits.
“Within a tree, there’s a flower” is the root cause, then comes a flower, as it has its all right conditions. It implies that when all its right conditions could be considered as right care taken, supported by the right weather, flowers are coming into bloom. For instance, Japanese cherry trees and Vietnamese ochna integerrimas are likely to produce flowers when the spring comes, but without right care, fertilizer and water supplied at all, they could hardly give rise to “beautiful” flowers.
Within a rock, there’s a flame is the root cause. Flame occurs as its all right conditions are available. These all conditions could be understood that two rocks rubbed each other hot enough is to create a flame. On contrary, it is impossible to give rise to a flame when two rocks are put apart. His implication was that “Within a being, there is Buddhata”, but this Buddhata has been hidden by avidya sustained from the beginning. In order for this Buddhata to be exposed in the present incarnation, such avidya needs to be eradicated through one’s right efforts put in cultivating the mind every second or restlessly, in the same way as the two rocks are continuously rubbed hot enough to produce a flame. If rubbing is not long enough or discontinued, flame could not be produced. Thus, laxity of self-cultivation is given or no right and strong efforts are made to eliminate one’s distress and delution (bad karmas), one’s Buddhata is never seen.
“Within a tree, there’s a flame ” is a typical image attached to Most Venerable Thich Như Dien’s life-long cultivation and Buddist-dharma propagation to benefit all beings. Most Venerable Nhu Dien is always a bright example of restlessness and right, strong efforts made to his cultivation on the noble path for the descendents to follow.
It was fortunate for me under Most Venerable’s permission given to accompany him for his Dharma-proclaiming journeys to the United States of America. It was my luck to pay several visits to Vien Giac Temple in Hannover. It was also my pleasure to get in touch with and act as a trusted servant to him on his visits paid to Quang Duc. Prostrating before the Buddha has been recognized as Buddhist practice to repend of one’s sins or wrong-doings through which their bad karmas could be removed or reduced. Additionally, this practice could help purify one’s body and mind via body, speech and mind karmas. Most Venerable Nhu Dien has vowed to kowtow to the Avalokiteśvara or Padmapani’s 500 names Sutra; the three thousand Noble Buddhas Sutra (the Buddhas of three generations – past, present and future Buddhas). Then, Sir Nhu Dien has also vowed to bow down to the ten-thousand Noble Buddhas Sutra from which 10,000 prostrations (Pali: panipāta, Skt.: namas-kara,) have been performed. During the three-month-summer retreat (known as Varsa), Monastery. Therefore, it is safe to say that I have witnessed and known the ins and outs of Most Venerable’s life-long cultivation. During his 55 year-practice no matter where he is, he has never quitted the early morning prayer session except for his illness.
Most Venerable Thich Nhu Dien is well-known for his Buddha-postrating vow, as his strong vow has been again made to prostrate to each word of the 70,000-word-Suddharma-Pundarika Sutra or The Lotus Sutra (Vietnamese version). Sir Nhu Dien and his followers have also been kowtowing to each word of the 4500 page Maha-Parinirvana Sutra or Great Nirvana Sutra (Vietnamese version). My anticipation is that such practice is not completed until the mid-2019. Sir Nhu Dien said, “Since 1984, he has performed 250-300 prostrations every evening. Obviously, in the modern world, nobody can measure up with him in this respect. Sir Nhu Dien said, “Thanks to reciting the Buddhist Sutras and prostrating before the Buddhas, many Buddha-affairs of mine have been marverlously completed.” In other words, through merits and virtue achieved from his every-minute practice, his various Buddha-works have been excellently undergone.
Most Venerable Thich Như Dien is the second President of The Unified Vietnamese Buddhist Congregation of Europe, and also a Deputy President of the World Association of Sangha located in Taiwan. Most Venerable Thich Nhu Dien was born on the 28th of June, 1949 at Duy Xuyen rural district in Quang Nam. He was ordained to the Buddha in 1964 at Phuoc Lam Patriarch’s Temple in Hoi An, an ancient market-town, Quang Nam province. He was ordained to be a novice disciple in 1967 by Pho Da Temple Triple Platform Ordination in Danang. His then dharma name was Giải Minh (‘clear explanation’ is the one of various meanings from this term) by the late Most Venerable Thich Long Tri. In 1971, he became a fully-ordained monk at the Formal Ceremony of Ordination held at Quang Duc Monastery in Thu Duc. In 1972, he was awarded an overseas study grant by the Unified Vietnamese Buddhist Congregation of Quang Nam in the agreement of Central Buddhist Association through the references made by Most Venerable Thich Huyen Quang and Most Venerable Thich Thien Hoa, the then Chairperson of the Institute of Buddhist Instruction and Guidance. He went to Japan for his study pursuit. In a period of nine months, he passed three Japanese language courses and was admitted to pedagogy school of Teikyo University in Tokyo. In Febraury, 1977, he graduated with the highest academic achievements, and moved on to the post graduate Buddhist study at Risso University, Tokyo after passing the admission examinations, but his study occurred over there for a short time only. On the 22th of April, 1977, he came to Germany with a travel visa. Then, he took official refuge granted by the German government. He has lived there and has not returned to his homecountry since then. He stayed in Kiel and learned German at Kiel University for one year before moving to Hannover to pursue post gradudate education study. On the 15th of April, 1978, he formed Vien Giac Buddha Recitation Hall in Hannover. In 1988 he was recognized as Senior Venerable by Great Vow Formal Ceremony of Ordination held at Lotus Dharma Temple in Marseille, France. On the 28th of June, 2018, He was ordained by the Unified Vietnamese Buddhist Congregation of Europe as Most Venerable at Phap Chuyen Formal Ceremony of Ordination held at Vien Giac Temple, in Hannover, Germany. On the 8th of July, 2011 in Colombo, Sri-Lanka, Most Venerable Thich Nhu Dien was awarded the Noble Prize by Sri-lankan Prime Minister for his merits on the world-wide Buddhist propogation recognized by Sri-lanka’s Council of Sangha. So was Most Venerable Thich Minh. Most Venerable also acted as a founder of the Unified Vietnamese Buddhist Congregation of Germany, Vietnamese Student and Overseas Buddhist Association of Germany in 1978 & 1979. There are currently 15 Buddhist temples all over Germany, comprising 70 monks and nuns together with 23 branches and seven Buddhist Associations.
2018-2019 is the time to celebrate 40 years in establishing the Unified Vietnamese Buddhist Congregation of Germany, a national branch, and also to celebrate 40 years in running the Vien Giac Magazine. The fact is that there have been three abbots in charge of Vien Giac Temple, Hannover as shown as follows: Most Venerble Thich Nhu Dien, the 41th embracer of Lam Te Zen, Chuc Thanh, was a founder of Vien Giac Temple in charge of it from 1978-2003. Following the founder was Senior Venerable Thích Hanh Tan, who took the first abbot’s role from 2003 to 2008. The second abbot was assigned to Reverend Thích Hanh Gioi from 2008 to 2017. The current abbot has been appointed to Reverend Thich Hanh Bon since 2017.
Vien Giac is one of the famous Temples in Europe, which started being built in 1889 and was augurated in 1991. The completion ceremony was held in 1993 with the construction cost of €9,000,000 ($ 5,000,000). Every year, Vien Giac Temple hold various Buddhist affairs for Vietnamese fellow-country people and native Germans, namely, Vesak or Buddha’s Birthday Aniverary, Filiality Ceremony, Avalokiteśvara or Padmapani’ s Ceremony, Lunar New Year Festival, First Full Moon Festival alongside short time and long time retreats lasting from two days to three months. By my estimate, the number of Vietnamese people that go to Vien Giac Temple every year could have reached 80,000, compared to 40,000 native Germans approaching the Temple to familiarize themselves to Buddhism.
It could be said that Vien Giac is the first Vietnamese pagoda established in Germany, and it has become the Partriarch’s Temple of the Chuc Thanh Sect in particular and for Vietnamese people in Germany in general.
Not only has Most Venerble Thich Nhu Dien’s Buddhist propagation been undertaken within Germany, but also it has reached overseas. Most Venerable Nhu Dien could be the first overseas Vietnamese monk holding the record for having travelled to the most countries since 1975, including 73 nations, particularly Europe, East Europe, North Europe, The United Nations of America, Canada and Australia where he frequently come and go for preaching the Buddha’s Dharmas.
The country that is the most familiar to him is Australia, as this place of Kangaroos is being dwelt by his bloody and dharma brother, Most Venerable Thích Bao Lac (current Chairperson of the Unified Overseas Vietnamese Buddhist Congregation of Australia and New Zealand), especially resided by his Dharma instructor, who was the very late Most Venerable Thich Như Huê (1934-2016), a former leader of Buddist Association of Australia for 16 years from 1999 to 2015. Based on the references made by Most Venerable Thich Nhu Dien, the Vietnamese Buddhist Community of Adelaide respectfully invited Most Venerable Nhu Hue to Australia to reside for long and preach the Buddha’s teachings until he entered the nirvana.
According to the Most Venerable, 1979 was the first time that he set foot on Australia pursuiance to the respectful invitation made by Vietnamese Buddhist Association of New South Wales to give some Buddhist instructions and advices on how to get involved in Buddhist activities. On the other hand, he also encouraged the Association members to make their own monthly donation of 10 AUDs through which the Association could maintain its activities in the long run and/or hire premises.
The fact is that Most Venerable Thich Bao Lac, his brother, is the abbot of Phap Bao Temple in Sydney. This could be the main cause of leaving Germany in every cold winter for Australia to visit his brother for two months, following his one-month stay in other Asian countries such as Thailand and India since Most Venerable Nhu Dien became the Head of Vien Giac Monastery in 2003. His brother and he frequently went up to the Da Bao Hill spending their retreat for two months on end. 2012 was a ten-year milestone in his extremely peaceful and joyful practice performed on the Da Bao Hill situated in Cambelltown or Blue Mountain. Besides writing or translating Sutras and/or dharma books, he together with his brother spent some time travelling here and there around Australia. For instance, in late 2006, Most Venerable Nhu Dien had his visits paid to Darwin, Perth, Aluce Spring and Uluru (Red Rock), one of Australia’s recognizable natural landmarks.
Uluru is generally viewed as a large sandstone rock formation, which is barren, that is, there are no trees and nor plants all over the rock. Uluru stands 348 metres in height and three kilometers in length, and it has a circumference of 8.5 kilomtres at its foot. For sightseers, everything appears to be seen as tiny in such a giant sandstone formation. Most impressively, Uluru is famous for appearing to change colour, such as dark red, orange-yellow, green, violet at different times and weather conditions of the day. The sacred rock is estimated to be 600 years old. It is characterized as dark red, but it is turned to other colour in accordance with the weather. During his visit in 2006, Most Venerable Nhu Dien also spent three hours in walking in meditation around such a sacred sandstone formation.
In late 2010, I invited Most Venerable to visit to Tasmania following his attendance at and instruction for the 9th cultivation class held in Sydney. His companion, Rev Hanh Dinh and he left for Melourne joining me and my Australian disciple, Quang Tu Chris Dunk to get on the Spirit Tasmania ship to start a journey. The reason for choosing Tasmania is that I wanted Most Venerable Nhu Dien to visit Port Arthur, a small town, which used to be a prison located on the Tasman Paninsula. Pursuant to the media news, this place was officially listed as a UNESCO World Heritage Site in 2010, alongside the other 11 places used as a chain of jails by British Empire in 18-19th centuries. Nowadays, Port Arthur is one of the most popular historic relics in Australia, appealing to over 250,000 sightseers each year.
During our tour to Tasmanis, Most Venerable and I discussed something regarding Buddhist affairs of the Buddhist Congregation, Buddhist propagation, particularly book translation plans for the near future. All of a sudden, right after the journey, the co-translation was started with two English books, which was transcribed into Vietnamese. At first, I respectfully requested Most Venerable to co-translate the work titled, “Buddha & His Principal Disciples’s Relica”, but to my notice, it had been already translated into Vietnamese. Then, I politely asked Most Venerable to co-translate the work,“Peaceful Death, Joyful Rebirth” written by a Tibetan Lamas, Tulku Thondup (Nyingma Sect). This book is 515 words in length. I translated five chapters from chapter one to chapter five while Most Venerable transcribed the other five chapters from chapter six to chapter ten and two appendices. Through the co-translation of this work, I would like to provide a supplement about the Tabetan Buddhism to the Vietnamese Buddhist archives, as this book is regarded as a ‘gathering point’ of the wisdom of the Tibetan Buddhism accumulated and refined for thousand years, focusing on the fundamental teachings on The zen sect, the Mantrayana sect and the Sukhavati sect (the Pure Land sect). Not only does it show how to treat our suffering and eliminate delusion about death and dyingness, but also it could help us to reach supreme bliss both for the present life and for life after death. The second book titled, “The Zen of Living and Dying – A Practical an Spiritual Guide”, was co-translated with Most Venerable Nhu Dien and published on the 17th Buddhist Practice Class held in December, 2017 at Portsea, Australia. My translation was made from the first page to page 136 while the rest from page 137 to page 251 was transcribed by Most Venerable., The English version was originated from American Zen Master, Philip Kapleau (1912-2004), who was the popular author of the work, “The Three Pillars of Zen”. I presented to Most Venerable the reason why I chose to translate this book, as it was related to Japan where he used to study from 1972 to 1977, while Senior Monk Philip Kapleau was the deciple of Japanese Zen Master Bach Van. Philip Kapleau came to Japan in March, 1947 to work as a secretary for the International Military Court in Tokyo trying the the Second World War criminals. In his comparison with trials for Nazi terrorists undertaken in Nuremberg, the hearings held in Tokyo were easier and less tensive, as Japanese people were calm and in control of accepting the consequences brought about by the war. From his knowledge acquired from “The law of karmic retribution”, Kapleau found that Japanese people accepted the bad retributions. The law of causes and effects closely involved in morality seemed to catch Kapleau’s attention, contrasting with the defence frequently heard in Germany. His curiosity of the karma law finally encouraged Kapleau to embrace Buddhism, then he quitted his job and was ordained to Japanese Buddhism.
Various books on death and dyingness have been available for the time being. Another supplement to this matter is a question that needs to be explained as follows: The aim of the work, “The Zen of Living and Dying” is to show a reader how to lead his whole life at any time and to have a peaceful death whenever it comes. This awareness will make us ready for fearlessly challenging death and calmly accepting anything regarding death when it occurs to us. In other words, it is the process of replacing worn-out and out-of-date body with a new one. Most importantly, dyingness is the very unique chance of the whole life that we have to experience emancipation or enlightenment. These two works co-translated by Most Venerable Nhu Dien, (teacher) and me (his student), have had a compaign launched to raise fund for publication and worldwide distribution in Europe, Australia, the USA and Canada. I would like to take this chance to express my huge thanks and gratefulness to Most Venerable Nhu Dien for doing me a favour by cooperating with him in creating these two spiritual works of value.
As for his tranquil retreats in Australia, the ten-year milestone has witnessed his 20 supplements to Most Venerable Nhu Dien’s archives of 65 (authored and translated) works. Additionally, Most Venerable has also made significant contributions to the Buddhist Practice Classes held at Australia.
In general, Australia is the country that Most Venerable has been to the most in his life. He told me that his journeys taken by plane to Australia have covered the distance of over one million kilometres, as 38 flights between Hannover and Sydney for 38 years (from 1979 to 2017) have reached 1,292,000 kilometres, as Hannover is 35,000 kilometres away from Sydney as the crow flies.
Second to Australia is the United States of American that Most Venerable very frequently approached to preach the Buddha’s teachings. In fact, in 1979, Most Venerable Nhu Dien started to fly to the USA. Up to 2018, for nearly 40 years on end, Most Venerable has had 50 journeys to this country for the Buddhist affairs. This implies that he took his trip to America nearly every year. If he did not fly over there in a year, or alternatively, in another year, he made two or three flights to this country whether to give Buddist instructions or whether to attend an inauguration ceremony, or whether to attend a monk or nun’s funeral.
“Preaching the Buddha’s teachings is a monk’s major duty while saving the world and helping humanbeings is the supramundane career.” It is the writer’s luck to be agreed by Most Venerable to accompany him during his Buddhist-propagation journeys to the USA from 2006 to 2012 (every year from early March to late May). After this period, we do not get engaged any more, as we have been up to our ears in Buddhist affairs at our Temples. The then delegation consisted of ten members including: Most Venerbale Nhu Dien (Delegation Leader), Senior Venerable Đồng Văn, Senior Venerable Nguyên Tạng, Senior Venerable Thông Triết, Senior Venerable Hạnh Đức, Senior Venerable Giác Trí, Rev Thánh Trí, Rev Thiện Đạo, Rev Hạnh Thức, Rev Viên Giác, RV Hạnh Tuệ, Abbess Minh Huệ…Most Venerable assigned tasks to them from which each instructed a topic depending on his/her capacity on Southern Buddhism or Northern Buddhistn, Zen, Pure Land or The esoteric canon. The regions that the delegations set foot on include: South California (Prajna Temple, Then-Living Buddha Temple, Compassionate Eye On The World Bodhi-mandala, Bright Gem Zen Hall, Lotus Pond Pure Abode, Hiền Như Pure Abode…) and North California ( Đức Viên Temple, An Lạc Temple, Đại Nhật Như Lai Temole, Kim Quang Temple, Quan Âm Monastery , Fremont Buddha reciting Hall, Hoa Binh Pure Abode, Compassion Vow Bodhi-mandala Andy Nguyễn Resturant…) from here we reached Las Vegas (Liên Hoa Temple, Phổ Quang Temple..). Then, the delegation dropped by Houston (Trúc Lâm Temple, Phước Đức Temple, Từ Bi Temple…) from Houston, the delegation came to Austin (Liên Hoa Temple). After that, the delegation went down to Oklahoma (Right Dharma TV ), which was left for Philadelphia (Linh Quang Temple, Phật Bảo Temple, Hoa Nghiêm Temple..). The delegation continued to approach Atlanta (Hải Ấn Temple, Tây Phương Temple, Co-religionist Thi Phuoc Home.); From Atlanta the delegation flied to Chicago (Trúc Lâm Temple, Quang Minh Temple, Phước Hậu Temple…), before coming down to Michigan (Linh Sơn Temple, Pháp Lâm Temple, Việt Nam Pagoda (St. Louis) , Quan Âm Temple, Tịnh Tâm Temple) and dropped by Jacksonville (Hải Đức Temple). From Jacksonville the delegation took flight to Orlando or Gainsville. The final destination was Mineapolis (Phật Ân Temple và Tây Phương Monastery). From there, the delegation flew to Montreal, Canada (Từ Quang Patriarch Temple, Quan Âm Temole, Hiếu Giang Temple, Từ Ân Temple…)
It would be impossible to withstand the pressure and tension brought about by travel and work for ten weeks on end if nobody from the delegation were healthy enough. Most of the cities and states, which the delegation set foot on, had monkless or nunless temples. So, the home Buddhists were hungry for the Buddha’s teachings on which they rely to cultivate themvelves to reach emancipation or enlightenment. The delegation was interviewed and the news on the delegation was published by the local media in Santa Ana such as Little Sai Gon Television (Đoàn Trọng Reporter, Phạm Khanh Journalist); Viễn Đông Newspaper, The Sai Gon Times about the current situation of The Unified Vietnamese Buddhist Congregation, and the delegation’s Buddhist propagation. Moreover, Kiều Mỹ Duyên radio reporter, Mr and Ms. Trọng Nghĩa-Mộng Lan undertook direct interviews with the delegation about various aspects from the Buddha’s dharmas – preaching journey. California Today Viet Nam Television in San Jose managed by Mr.Nam, also took a media piece accompanied by interviews with the delegation on something regarding the Congregation and delegation.
“The age of 70 has long since been rare
Life span of 100 years is few and far between
Though the age of 100 is achievable
Bridge of birth and death is inevitable
In the sea of sorrow one swims
Ups and downs are countless
to struggle for a life span of 100 years
The older and the more bored make delusion further.”
Indeed, reaching the age of 70 has long since been rare for worldly human-beings. No matter how lucky they are to be 70, they have been engulfed in the world affairs, which are always changing up and down, resulting in their suffering. They are always burying themselves in reputation, social positions, food & clothing, money and so forth without any days when they are at ease, in happiness and in peace. As for Most Venerable Nhu Dien, he is reaching the age of 70. Up to now, his life could have been considered as an integral journey that looks marvellous, thoroughly clear and magic. This has been reflected through the following facts and figures: His 70 years to dwell in this world; 55 years to be ordained to practice dharmas and to preach the Buddha’s teachings; 40 years in establishing and managing Vien Giac Temple in Germany; and 40 years to join the noble monks and nuns to turn the wheel of dharmas. Obviously, his life is a very bright example of his virtue and life-long propagation merits. He is always showing his lifestyle as a devout monk, closely characterized as content with few desires, pure virtue of morality attached to his daily practice, his book-writing career; translating, printing and distributing Buddhist works; publishing the Vien Giac Magazine, instructing Buddhist clergy, maintaining a devout monk’s lifestyle in accordance with precepts; preaching the Buddha’s teachings and rescueing all being to free from delusion; establishing Bodhi-mandalas; and preserving national culture. He has ordained 45 disciples, and let 7000 home Buddhists take refuge in the Buddha, the Dharma and the Sangha. All of them have had a joy of hearing and tasting miraculous dharmas given by Most Venerable Nhu Dien. No word in my language store can describe his life devoted to the propagation of the Buddhist dharmas and to helping others to liberate from delusion. It has been told that all of his very dear disciples from Vien Giac Temple in Hannover, Germany have been making prepations to celebrate his 70th birthday anniversary in the 2019 summer. May we presume to have these words to eulogize Most Venerable Nhu Dien’s every-second practice and merits that you have devoted your whole life to preaching the Buddha’s dharmas and helping beings from delusion abroad. May we prostrate before you. May we wish you good health and peaceful mind with unhindered dharma-causes.
NAMO AMIDA BUDDHA
Writeen at Quang Duc Monostery, 2018 Varsa
Bhikkhu Thích Nguyên Tạng
Translated into English by: Dr Tâm Tịnh, Hoa Chí & Hoa Nghiêm