Phật giáo Đàng Trong là một bộ phận trong giai đoạn Phật giáo thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Với đặc điểm phát triển trên một vùng đất mới với cơ sở văn hóa bản địa đa dạng. Chủ nhân của xứ Đàng Trong bấy giờ đa dạng về mặt nhân chủng cũng như về những yếu tố văn hóa của họ. Khi Phật giáo hiện diện tại Đàng Trong hòa cùng với các yếu tố bản địa đó làm nên một sắc thái riêng biệt so với Phật giáo Việt Nam ở Đàng Ngoài trong thời điểm bấy giờ. Mặt khác trên cương vực Đàng Trong thời điểm đó, Phật giáo vốn đã du nhập sớm, việc Phật giáo một lần nữa tái hiện diện trên lãnh thổ đó một lần nữa kết duyên với những yếu tố bản địa tạo nên một diện mạo Phật giáo Đàng Trong với những đặc điểm và tính chất rất riêng biệt. Đồng thời có những đóng góp rất quan trọng trong buổi đầu người Việt đi về vùng đất phía Nam.
1. Đồng hành với nhân dân trong quá trình đi trước để mở cõi
Phật giáo gắn liền với quá trình thiên di vào Nam của người Việt. Bởi lẽ đạo Phật là tôn giáo đậm chất men an ủi, phủ dụ, là nơi bám víu, che chở cho tâm hồn Việt tha hương xa xứ, di cư trên vùng đất đầy lạ lẫm không chỉ bởi sự thách thức của môi trường sinh tồn mà còn là bản lĩnh để tiếp cận với những sắc thái văn hoá của các cộng đồng người bản địa.
Phật giáo là chất keo kết dính cộng đồng Đàng Trong. Chúa Tiên từng trăn trối với Nguyễn Phúc Nguyên rằng: “Đạo làm tôi phải trung, làm trai phải hiếu, tình anh em bè bạn lấy tin yêu làm đầu, không được quay ngoắt tráo trở để mất nhân tâm”. Chiến lược nhân tâm đã trở thành vấn đề mấu chốt cho việc dựng nghiệp ở Nam hà, là chìa khóa thành công: “Yên chỗ ở cho dân, theo phong tục của người dân, mở mối lợi, trừ mối hại, đó là việc đầu tiên trong việc vỗ trị xứ Thuận Quảng vậy”.[1] Trên vùng “tử địa”, chiến lược nhân tâm của họ Nguyễn đã rất thành công, xây dựng Đàng Trong thành một quốc gia hùng mạnh, giải thích cho điều đáng kinh ngạc là họ Nguyễn đã thành công trong việc thiết lập một quốc gia thống nhất trong nhiều thế kỷ tại một lãnh thổ ít kết cấu chặt chẽ nhất thế giới.
Trên cơ sở đó, trong quá trình mở cõi tên đất, tên làng được người dân gánh theo vào miền đất mới cũng gắn với Phật giáo. Từ vùng đất đầu tiên là xứ Thuận Hóa, chúng ta có thể thấy được trong chính cách đặt tên làng Ưu Đàm ở huyện Quảng Điền hay làng Phù Trà ở huyện Hương Trà. Phù Trà là một cách đọc trại âm từ Phù Đồ (stupa) là tháp Phật giáo hay các làng Pháp Kệ, Linh Sơn ở Tiên Bình. Đi dần vào Nam các yếu tố Phật giáo không chỉ gắn liền với tên làng mà còn là tên núi tên sông. Trong Gia Định thành thông chí còn nhắc đến Bối Diệp giang mà tên dân gian của nó là sông Lá Buông, Nữ Tăng sơn mà ngày nay chúng ta gọi là núi Thị Vải ở Biên Hòa xưa. Xuôi về miệt sông nước phía Nam đặc biệt là ở Hà Tiên, hàng loạt tên cảng thị, cồn bãi cũng ảnh hưởng các yếu tố Phật giáo như Bồ Đề cảng được đặt tên teho giống cây mà đức Phật đã ngồi khi Thành đạo. Uất Kim dữ được đặt tên theo một loài hoa chỉ dùng để cúng Phật như Dị vật chí mà Dương Phụ đã nhắc đến, ngày nay dân gian gọi đó là Hòn Nghệ. Hay Ưu Đàm giang được đặt tên theo một loài hoa thiêng của Phật giáo nở khi đức Phật ra đời, ngày nay địa danh đó được dân gian gọi là tắc Cây Sung. Đặc biệt, một địa điểm đã đi vào thơ ca của Tao Đàn Chiêu Anh Các nơi vùng biên ải. Địa điểm ấy trong Hà Tiên thập vịnh được nhắc đến chính là Tiêu tự thần chung, tiếng chuông chùa Tiêu ấy nằm trên ngọn núi được đặt tên là Địa Tạng sơn. Ngoài các tên chữ liên quan mật thiết với Phật giáo như vậy, trong đời sống của người lưu dân ấy còn có những tên xóm ấp nôm na rất dễ mến như xóm chùa, ấp chùa, bến chùa, ngã ba chùa, ngã tư chùa,…
Mặt khác giới tu sĩ Phật giáo trong quá trình đi cùng với lưu dân khai khẩn miền đất mới cũng không ngại việc mà cùng dân khai hoang. “Tổ Phật Ý cùng theo sư huynh, bạn đạo cũng theo dân vào rừng đốn cây, chặt lá.”[2] Chính sự gắn bó ấy tiếp thêm sức mạnh cho người dân Việt vững bước trên bước đường khai khẩn. Khi ngôi chùa nơi vùng đất mới đã được định hình, sinh hoạt trong các tùng lâm tự viện cũng có những khác biệt so với Phật giáo thuở trước. “Tổ Phật Ý phân công mỗi người nửa tháng theo dân vào rừng đốn củi, hái rau trái về ăn.”[3] Phật giáo trong quá trình đó cũng cùng với người dân phát triển mở rộng các phương thức sản xuất kinh tế.
Trong hệ thống chùa chiền Đàng Trong, chúng ta có thể phân thành thứ nhất là chùa vua, tức là các ngôi Quốc tự do Nhà nước thành lập, được xem như một cơ sở thờ tự Quốc gia mà nổi tiếng nhất chính là Thiên Mụ. Thứ hai là hệ thống chùa quan, tức là các tự viện do quan lại, vương tôn, quý tộc hiến đất hay bỏ của cải ra để xây dựng. Cuối cùng là hệ thống chùa làng do chính nhân dân góp công, góp của xây dựng nên. Mà hệ thống chùa làng luôn được ghi nhận là xuất hiện trước trong lịch sử. Vì vậy, có thể nói trong quá trình mở cõi, lớp di dân đầu tiên dấy luôn mang hình bóng ngôi chùa theo, và khi đã định cư thì chùa sẽ xuất hiện trong sinh hoạt của người dân nơi vùng đất mới.
Vì chiến tranh mà người ta mới phải bỏ quê hương xứ sở của mình để đến vùng đất mới xa lạ để mưu cầu cuộc sống bình yên. Như vậy, ở một khía cạnh nào đó, Phật giáo vẫn là người đồng hành cùng dân tộc khi đáp ứng nhu cầu của đại đa số dân tộc. Dù có theo khuynh hướng thiên tả hay thiên hữu trong phương diện hành hoạt thì Phật giáo vẫn giữ vai trò là người đi xoa dịu nỗi đau chiến tranh. Phật giáo Việt Nam chấp nhận nhập thế, “từ bi nãi sát sanh dĩ độ chúng sanh” nhưng luôn có một chừng mực và giới hạn của nó. Trong một chừng mực cho phép đôi khi chúng ta nhìn nhận về tính chất chính trị bên trong Phật giáo. Tuy nhiên do những sự hiểu biết bề ngoài, chưa có sự quán sát tinh tường, chúng ta dễ dàng bị tâm lý quần chúng đẩy vào những sự nhìn nhận chưa sâu sắc. Phật giáo bất kỳ thời kỳ nào khi đồng hành cùng dân tộc đôi lúc thể hiện tính chính trị quá mức, nhưng nội hàm việc thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp lợi sanh, cùng dân tộc vượt qua khó khăn có mấy người hiểu được giá trị thâm sâu đó. Như một ví dụ điển hình “Năm 1727, chiến tranh Trịnh – Nguyễn lần thứ 8. Sau khi quân Trịnh rút về Đàng Ngoài, Hiệp Đức hầu Nguyễn Phước Chiểu lập đàn cầu siêu chiến sĩ trận vong.”[4] Nhìn nhận về phương diện đi cùng dân tộc, chúng ta có thể thấy được sự góp mặt của Phật trong việc thực hiện nhiệm vụ hoá giải vết thương chiến tranh, xoa dịu tâm hồn những con người bất hạnh vì thuở chiến loạn mang lại.
2. Tác động đến sự phát triển văn hóa ở Đàng Trong
Đặt trong bối cảnh lịch sử chính trị xã hội Việt Nam từ giữa thế kỷ XVI đầy biến động, sự tồn tại của thế lực Nguyễn Hoàng thật quá cam go. Để thoát hiểm, hầu như ông chỉ còn lại phương cách duy nhất là thoát khỏi lòng chảo Bắc bộ để đi về phương Nam. Vượt qua dãy Hoành Sơn, trong bối cảnh đó, là sinh lộ “độc đạo” cho việc ươm mầm một thế lực chính trị mới trên chính trường đương thời, khả dĩ không bị tiêu diệt. Tuy nhiên, sinh lộ đó lại được xác định trên một vùng “tử địa” bởi sơn lam chương khí cũng như dân tình biên viễn khó thu phục. Không phải họ Trịnh không nhận ra ý đồ “đào thoát” nhưng có thể do quá tin tưởng vào chốn ác địa sẽ sớm đè bẹp thế lực cậu em vợ. Hơn nữa, Nguyễn Hoàng lại còn bị kềm toả bởi Quảng Nam của Bùi Tá Hán, rồi Nguyễn Bá Quýnh.
Vấn đề có tính chiến lược của họ Nguyễn, ngay từ buổi đầu, phải xác lập nền tảng tư tưởng thống nhất để cố kết xã hội, làm chất keo kết dính cộng đồng và định hướng tinh thần cho quốc gia lãnh thổ mà vẫn không vượt ra ngoài và cũng không rập khuôn máy móc những “khuôn vàng thước ngọc” trong định chuẩn xã hội Nho giáo đương thời từ miền Bắc. Phật giáo đã đảm đương được sứ mạng cao cả đó. Và như vậy “các nhà lãnh đạo họ Nguyễn cảm thấy cần phải đưa ra một cái gì đó khác với tín ngưỡng người Chăm, để củng cố, cai trị di dân người Việt về mặt tinh thần và tâm lý.”[5]
Phật giáo là sự lựa chọn của chính quyền, tuy nhiên Phật giáo Đàng Trong bấy giờ tinh lược những sự rườm rà của một tôn giáo mà thay vào đó là sự gần gũi, do đó lớp lưu dân Việt mới dễ dàng chấp nhận và cảm thấy sự gần gũi. Như chính một vị linh mục đã nhận xét “tôn giáo của họ tỏ ra đơn giản hơn và ít bị che phủ bởi những điều thần bí và những lễ thức về cúng bái, bói toán như nó đã được thực hành phổ biến ở Trung Hoa.”[6] Phong tục tập quán của người dân Việt trên vùng đất mới bị ảnh hưởng từ những nét sinh hoạt Phật giáo nhiều như vậy. Sự cung kính với Phật được họ thể hiện qua những việc rất chân chất “những bông lúa chín đầu tiên, những quả cau chín đầu tiên đều được mang cúng Phật”.[7] Bất cứ những gì mà địa phương có đều dành cho việc cúng dường nơi chùa chiền mà không cần kiểu cách phải đúng mô thức. Với những vị thiền sư đáng kính cũng vậy, như thiền sư Thạch Liêm ghi chép lại rằng “chưa sáng, dân quan nam nữ đã đứng chật dưới thềm. bưng đội tiền bạc, trầu cau, trái cây đến lễ bái, tục gọi đi lễ mừng”.[8] Tập tục đi lễ mừng vào ngày sóc, ngày vọng đó của lưu dân Việt đến ngày nay phần nào vẫn còn được lưu giữ. Việc đội gạo lên chùa trong những dịp rằm lớn, đặc biệt là vào rằm tháng Mười âm lịch khi mừng lúa mới. Hay việc cúng trầu cau ở các chùa miền Nam ngày nay vẫn còn rất nhiều.
Trong đời sống văn học của lớp lưu dân mới, có nhiều nét ảnh hưởng từ Phật giáo. Mà văn học là phản ánh rõ nét về tâm hồn của con người, do đó từ văn học có thể thấy được đời sống tinh thần của họ. Trước tiên là trong nền văn học dân gian, xuất hiện nhiều ca dao mới liên quan đến các yếu tố Phật giáo. Như trong bài ca dao:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Khương.”
Khi vào đến vùng đất mới để phù hợp với hoàn cảnh mới, cư dân tại đây cho ra dị bản thay thế Trấn Vũ quán nơi Tây Hồ, Thăng Long bằng chùa Thiên Mụ là nơi sinh hoạt tậm linh gắn liền với người dân Đàng Trong:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.”
Hay như trong đời sống sinh hoạt, khi trai gái giao duyên với nhau, hình bóng mái chùa hồn hậu vẫn như một minh chứng sắt son cho tình yêu của họ như vậy:
“Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời thề.”
Ngoài những giá trị trong văn học dân gian, trong văn học viết chúng ta có thể thấy rất rõ những nét đặc sắc ảnh hưởng từ Phật giáo. Điển hình để khuyến khích khai khẩn và sản xuất, Nguyễn Cư Trinh đã dùng những hình ảnh Phật giáo mà nói lên điều ấy. Có lẽ với những gì liên quan đến Phật giáo thì cư dân Đàng Trong bấy giờ dễ dàng tiếp nhận hơn. Do đó, tác phẩm Sãi vãi vừa mang tính hài hước trong cuộc đối đáp của ông sãi và bà vãi mà mang ý nghĩa sâu xa như vậy. Mặt khác, chúng ta hay dễ nhầm lẫn, tác phẩm này là một áng văn phê phán Phật giáo nhưng chưa tìm hiểu kỹ nét văn hóa Phật giáo trong nó. Từ danh từ sãi tức chỉ người cư sĩ tại gia nhưng sống ở chùa để hương khói vai trò như ông Từ của đình làng, hay vãi là người nữ cư sĩ cũng ở chùa để công quả phục dịch. Từ không biết rõ khái niệm chúng ta hay quy chụp sãi và vãi là hàng ngũ tu sĩ Phật giáo nên có phần phản cảm cũng như đả kích Phật giáo. Chính những tác phẩm tiêu biểu đó làm nên một nền văn học Đàng Trong ảnh hưởng ít nhiều từ Phật giáo.
Đồng thời trong cách mặc của người Đàng Trong bấy giờ cũng có những thay đổi. Chính Lộc Khê hầu Đào Duy Từ trong khi bày mưu định kế chống cự với họ Trịnh, đã khuyên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên bắt dân thay đổi tập tục cho khác hẳn dân bắc, như bỏ nón thượng, đội nón chóp, bỏ tóc bao mà búi tó, bỏ váy để mặc quần. Mặt khác, trong cách mặc của người Đàng Trong một phần bị ảnh hưởng từ Phật giáo. Từ áo vạt khách của người Hoa, Phật giáo nối dài vạt rước phủ kín ngang hông tạo thành áo vạt hò. Từ đó, trong y phục người dân Đàng Trong khi có lệnh từ chúa Nguyễn, bỏ cách mặc áo tứ thân mà thay bằng áo năm thân. Áo năm thân đó ảnh hưởng trực tiếp từ vạt hò của Phật giáo. Chính vì cách mặc áo ngũ thân đó mà người nước ngoài mới nhận xét rằng “quan lại Nam Hà ăn mặc theo lối Nhật.”[9] Đồng thời trong trang phục của các bậc trưởng lão Phật giáo có quan âm cân, sau này nó trở thành nón của các bậc mệnh phụ ở Đàng Trong. Áo nhật bình được chư Tổ Phật giáo sáng tạo ra trong thời kì này, và nhật bình ảnh hưởng trực tiếp đến trang phục cung đình sau này.
Âm nhạc là một trong những yếu tố quan trọng nữa làm nên văn hóa Nam Hà mà chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo. Như thiền sư Thạch Liêm trả lời một vị cư sĩ: “trong mười thứ cung dưỡng âm nhạc là một vậy.”[10] Trong đời sống dân gian của cư dân Đàng Trong, hình ảnh bà mẹ xứ sở Po Ina Nagar cho chúng ta một điểm mở, nếu thật sự là một người giác ngộ hay một Phật tử thuần thành mới có một tư tưởng độc đáo. Không chấp nhận việc người chồng thường xuyên đưa quân xâm lấn các nước lân bang, sau nhiều lần ngăn cản nhưng không hiệu quả, bà quyết định đưa hai người con vượt biển về quê xưa Nha Trang xây dựng nên một vương triều tại đây. Điều đó chứng tỏ, tư tưởng từ bi, khoan dung, tôn trọng sự sống và tự do của các nước lân bang trong bà luôn được đánh thức. Sự đánh thức này thấm đượm tinh thần Phật giáo. Vì thế, bà quyết định bỏ hạnh phúc riêng tư để cảnh tỉnh người chồng. Trong bài văn hát dâng vị thần này vào các ngày lễ, chúng tôi phát hiện ra “bà được sinh ra từ gốc cây Bồ Đề”. Điều này có nghĩa là, người Chăm quan niệm, bà là hiện thân của sự giác ngộ, một sợi dây vô hình ràng buộc và ám chỉ về tính chất Phật giáo trong con người bà ở câu hát này. Hay chẳng hạn như các tu sĩ Phật giáo miền Trung thường diễn đạt rất dạt dào, ngân nga và thiết tha khi so sánh với cách diễn đạt từ những vùng khác trong nước. Đây cũng có thể là một bằng chứng cho thấy ảnh hưởng của âm nhạc triều đình Huế, phần lớn do sự sáng tạo của Đào Duy Từ, và âm nhạc tế lễ Chiêm Thành vào cách “tán Phật” tại miền Trung.
3. Góp phần trong phát triển giáo dục ở Đàng Trong
Không phải ngẫu nhiên mô hình kiến lập quốc gia được thiết lập theo kết cấu “Đất vua – Chùa làng – Phong cảnh Bụt” được giới giới lãnh đạo quốc gia và Phật giáo từ xưa đến nay nỗ lực xây dựng nhằm bảo vệ chủ quyền đất nước, cũng là bảo vệ đạo pháp, bảo vệ văn hóa nước nhà. Ba thành tố đó thực chất chỉ là một, bởi vì suy cho cùng đất là của vua, tức là của dân, trong đó mỗi làng đều có chùa, mà chùa thì do sư ở và trông coi đời sống số đông quần chúng Phật tử thực thi đời sống đạo. Hóa ra, khắp cả nước đâu cũng có chùa, mà nhiều chùa trở thành phong cảnh Bụt là ước nguyện chung cả đồng dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay. Và như thế Phật giáo đã hoàn thành sứ mệnh trong một bối cảnh lịch sử dân tộc ta phải luôn đối diện sự xâm lược phương Bắc một cách thường trực. Việc kiến thiết quốc gia, bảo lưu văn hóa nước nhà thông qua chương trình hành động cụ thể mà giới Phật giáo khuyến khích làm là: “Xây chùa, dựng tượng, đúc chuông, Trong ba việc ấy thập phương nên làm”.
Từ trong lịch sử dân tộc mà nhìn nhận lại, Phật giáo Việt Nam ngoài việc phải chăm lo giáo dục đạo đức còn phải đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân trong việc học chữ. Từ thời kỳ đầu xây dựng nền độc lập, thuở Đinh – Lê – Lý – Trần xây dựng đất nước, Phật giáo đã đáp ứng nhu cầu thiết yếu của quần chúng khi ngoài đời sống không thể đáp ứng. Từ thuở ban sơ ấy mái chùa đã là nơi che chở hồn dân tộc. Chốn Già lam tịnh địa ngoài phạm trù tín ngưỡng còn trở thành lớp học chữ trong thời gian dài tăm tối của dân tộc Việt. Trẻ em đến chùa học không phải để xuất gia cũng không phải chỉ học Phật giáo, mái chùa bấy giờ là nơi dạy kiến thức thế tục lẫn Phật học và là nơi nuôi lớn tài năng của bao danh nhân đất Việt. Việc học trong chốn Già lam ấy vẫn còn “dư âm” kéo dài đến tận thời kì ta đã giành lại độc lập chủ quyền.
Trong buổi đầu giành được độc lập, các Nhà nước đầu tiên đều dùng “bạo trị” để cai trị thiên hạ. Thiền sư Vạn Hạnh với ý niệm chuyển hóa một xã hội Việt Nam từ “bạo trị” sang “đức trị”, biến một quốc gia Đại Cồ Việt đang suy vi vì chiến loạn liên tục, máu đổ khắp nơi thành một quốc gia phú cường, hưng thịnh, nhân dân ấm no hạnh phúc. Để có được việc đó, thiền sư Vạn Hạnh đã ra tay hành động một cách kiên trì và âm thầm từ trong công việc giáo dục. Để có một cuộc cách mạng thay đổi triều đại mà không đổ máu năm 1009, thiền sư Vạn Hạnh đã chuẩn bị rất nhiều tâm huyết trong hàng chục năm để trang bị cho Lý Công Uẩn một nền giáo dục toàn bích, kết hợp Phật giáo tính, dân tộc tính và thời đại tính. Đồng thời cũng mang trong nó bách khoa tính, thực dụng tính và lãnh đạo tính biến cậu bé Lý Công Uẩn thông minh khác thường thành một người tài đức vẹn toàn, một công dân gương mẫu, một vị tướng trung dũng, đồng thời cũng thấm nhuần giáo lý Phật đà để có thể trở thành một vị quân vương bồ tát, trị quốc an dân theo chánh pháp.
Trong hoàn cảnh của Đàng Trong bấy giờ, Phật giáo Việt Nam vẫn mang nặng trách nhiệm giáo dục. Bởi lẽ, lưu dân ở Đàng Trong vì những quan niệm Nho học mà giới sĩ phu Bắc Hà cho là khuôn vàng thước ngọc làm cho khốn khổ. Những quan niệm hủ Nho đó làm họ trở thành người không quê hương. Lối sống của cư dân Đàng Trong coi trọng tính cởi mở, thoáng mà chính người ngoại quốc cũng nhìn nhận rằng: “Họ thậm chí khen ngợi tập quán của người ngoại quốc, và với thái độ rất lịch sự, họ khâm phục những học thuyết xa lạ, đặt chúng lên trên cả giáo điều của họ, khác hẳn với người Trung Quốc luôn tự phụ về phong tục và giáo điều quốc gia.”[11] Chính vì điều đó nền giáo dục Nho học khoa cử không được lưu dân Đàng Trong chấp nhận. Thực tế lịch sử cho đến sau này khi triều Nguyễn thành lập, mãi đến triều Minh Mạng, đất Nam Kì mới có tiến sĩ đầu tiên là Phan Thanh Giản. Mặt khác thuyết chính danh định phận của Nho học một phần nào đó mâu thuẫn với lợi ích cầm quyền của chúa Nguyễn nên cũng bị hạnh chế. Giới trí thức Nho học ở Đàng Trong ít nên không phát triển Nho học rộng rãi. Vì vậy nhiệm vụ giáo dục được giao về cho Phật giáo. Từ khi theo chân lưu dân vào vùng đất mới, một hệ thống giáo dục đặc biệt của Phật giáo đã ra đời. Một loạt các trường gia giáo ra đời. Nói về trường gia giáo, hiểu nôm na là một dạng trường học tự túc, chương trình học thì chưa có một sự thống nhất với một hệ thống chung. Tùy theo khả năng của người thầy mà chương trình được đề ra với những môn học khác nhau. Đến nỗi thiền sư Thạch Liêm cuối thế kỷ XVII khi sang nước ta cũng phải khuyên vua rằng: “Nay nhà vua nên dựng nhà Quốc học, tôn thờ Khổng thánh, tàng trữ sách Nho, mời các nhà lý học danh nho ra làm thầy để giảng minh đạo thánh”.[12]
Mặt khác giới tu sĩ Phật giáo ngoài nhiệm vụ làm thầy dạy học chữ còn kiêm nhiệm thêm nhiều nhiệm vụ khác trong đời sống người dân Đàng Trong. Trong các việc đó, tu sĩ Phật giáo đồng thời cũng là thầy thuốc, cũng như thầy tướng số. Các nhà truyền giáo Thiên Chúa cũng nhìn nhận rằng: “các nhà sư ở đây được coi là những thầy thuốc giỏi nhất”.[13] Do đó có thể phác họa một diện mạo Phật giáo ở Đàng Trong bấy giờ, tu sĩ Phật giáo vừa là bậc thầy tâm linh, đứng ra thực hiện các nghi thức tâm linh, đồng thời cũng là ông thầy đồ dạy học nơi làng quê, cũng như là ông thầy thuốc trị bệnh, cứu người. Những vai trò đó làm cho Phật giáo và lưu dân ở Đàng Trong gần nhau một cách mật thiết, tạo nên chỗ đứng của Phật giáo.
KẾT LUẬN
Phật giáo về bản chất là tôn giáo không đề cao thần quyền, yếu tố thần quyền để ban phước giáng họa là không bao giờ xuất hiện trong giáo lý nhà Phật. Phật giáo duy chỉ hướng đến việc nhìn nhận khổ đau trong đời sống thực tại và con đường diệt khổ. Với tính chất nhân văn đó, Phật giáo dễ dàng được người Việt tiếp nhận. Đặc biệt trong lúc con người bị vây khôn bởi những áp lực tinh thần, không một điểm bám víu nương tựa những lúc cần thở than.
Con đường Phật giáo đến với dân tộc Việt Nam là con đường hòa bình, không đi vào đất Việt với lưỡi gươm hay tiếng súng. Nên trong bất cứ hoàn cảnh nào Phật giáo cũng là chỗ dựa vững chắc cho người dân Việt. Do đó trong công cuộc “mở cõi” với nhiều gian khó và trắc trở, Phật giáo vẫn là nơi nương tựa, là chỗ để những lưu dân Đàng Trong thở than. Trong quá trình đó Phật giáo đã tác động đến đời sống cư dân Việt thuở mang gươm đi mở cõi ấy. Đồng thời từ những sinh hoạt Phật giáo nơi vùng đất mới kết hợp với những yếu tố bản địa sản sinh ra những nét văn hóa mới của Phật giáo đồng thời cũng tác động đến văn hóa dân tộc. Những giá trị của Phật giáo từ thuở khẩn hoang ấy là những giá trị rất đẹp đã được cư dân Việt lưu giữ một cách trọn vẹn để truyền lại cho thế hệ sau cho đến ngày nay.
____________
* Tăng sinh Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM khóa XIII.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Rochon (2017), Miêu tả về Đàng Trong, Đàng Trong thời chúa Nguyễn(Nguyễn Duy Chính dịch), Nxb. Hội nhà văn Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Kỷ yếu Hội thảo 300 năm Phật giáo Gia Định – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
- Thích Hải Ấn – Hà Xuân Liêm (2001), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
- Borri (2019), Xứ Đàng Trong(Thanh Thư dịch), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
- Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội
- John Barrow (2018), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792 – 1793(Nguyễn Thừa Hỷ dịch), Nxb. Thế giới.
- Nguyễn Lang (2011), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học.
- Phan Huy Lê (2017), Lịch sử và văn hóa Việt Nam những hướng tiếp cận bộ phận, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phan huy Lê (2018), Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- Li Tana (2016), Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII(Nguyễn Nghị dịch), Nxb. Trẻ.
- Sơn Nam (2014), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Trẻ.
- HT Thích Hiển Pháp (2001), Biên niên sử Phật giáo Gia Định – Sài Gòn –TPHCM,Thành phố Hồ Chí Minh.
- Thích Đại Sán (2015), Hải ngoại kỷ sự, Nxb. Khoa học Xã hội.
- Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập I, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
- Trần Thuận (2019), Phật giáo Việt Nam góc nhìn lịch sử văn hóa, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
[1] Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, trang 126.
[2] Thiền Hòa tử Huệ Chí, Buổi đầu của Phật giáo Gia Định – Sài Gòn, Kỷ yếu Hội thảo 300 năm Phật giáo Gia Định – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, trang 58.
[3] Thiền Hòa tử Huệ Chí, Sđd, trang 58.
[4] HT Thích Hiển Pháp, Biên niên sử Phật giáo Gia Định – Sài Gòn –TPHCM, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trang 21.
[5] Li Tana, Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII (Nguyễn Nghị dịch), Nxb. Trẻ, 2016, trang 222.
[6] John Barrow, Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792 – 1793 (Nguyễn Thừa Hỷ dịch), Nxb. Thế giới, 2018, trang 134.
[7] John Barrow, Sđd, trang 134.
[8] Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Nxb. Khoa học Xã hội, 2015, trang 57.
[9] A.M.Rochon, Miêu tả về Đàng Trong, Đàng Trong thời chúa Nguyễn (Nguyễn Duy Chính dịch), Nxb. Hội nhà văn, 2017, trang 40.
[10] Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Nxb. Khoa học Xã hội, 2015, trang 65.
[11] C.Borri, Xứ Đàng Trong (Thanh Thư dịch), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, trang 85.
[12] Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Nxb. Khoa học Xã hội, 2015, trang 85.
[13] John Barrow, Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792 – 1793 (Nguyễn Thừa Hỷ dịch), Nxb. Thế giới, 2002, trang 139.