Thấm thoát chín tháng của khóa sơ cấp Phạn văn đã trôi qua và các lớp học đã học xong bài thứ ba mươi; có thể nói là đã vượt qua những phần ngữ pháp và cú pháp khó nhất của khóa học sơ cấp được hạn định trong vòng một năm. Mặc dù chưa kết thúc khóa nhưng nhân dịp Ban Hoằng Pháp giới thiệu Thanh Văn Tạng và được yêu cầu, tôi xin viết vài dòng tản mạn về khóa Phạn văn này với một số cảm nhận có được qua kinh nghiệm dạy. Sau đây tôi xin lần lượt đưa ra một số điểm mà tôi xem là ngộ nhận từ phía học viên hoặc những người quan tâm đến Phạn ngữ để rồi sau đó đưa ra một số đính chính rõ ràng.

1. Không chú trọng đến việc phát âm hoặc ít nhất là không nỗ lực triệt để để khắc phục những lỗi phát âm. – Mặc dù bảng mẫu tự Phạn ngữ có những mẫu tự khó đọc cho người Việt (ví như hàng âm lưỡi uốn cong ṭ, ṭh, ḍ, ḍh, ṇ và âm xuýt ś, ṣ và s) nhưng theo tôi, phát âm Phạn ngữ dễ hơn rất nhiều so với Anh ngữ hoặc Pháp ngữ. Nguyên do ở đây rất đơn giản là tất cả các mẫu tự chỉ có một cách đọc đặc thù duy nhất và không có trường hợp ngoại lệ nào như trong Anh ngữ. Như vậy, việc phát âm đúng các mẫu tự này quan trọng vì nó cung cấp cho người học một mốc nhớ từ vựng song song với cách nhìn mặt chữ. Phát âm chuẩn cùng với việc tách chữ đúng khi đọc những câu văn trong phần bài tập sẽ giúp học viên nhớ và hiểu Phạn ngữ rất tốt. Chỉ có điều chính những điều này cần phải được trau dồi ngay khi làm bài tập. Như vậy có nghĩa là, khi làm bài tập thì học viên Phạn ngữ trước hết nên tìm cách tra từ vựng và tìm hiểu ngữ pháp/cú pháp để dịch được những câu được đề ra, nhưng sau khi dịch xong cũng phải dành thời gian để “quán chiếu” câu vừa được dịch và đọc lại nguyên văn tiếng Phạn với ngữ pháp đã hiểu và đọc tách chữ đúng như đã hiểu ngữ pháp, và nếu phát âm chuẩn được – chuẩn ở đây có nghĩa là có khả năng khu biệt được rõ ràng cho chính mình những âm tiết khác biệt nhau, ví dụ như a (a ngắn) và ā (a dài), i và ī, u và ū v.v… (một vấn đề nan giải cho rất nhiều học viên mà cho đến bây giờ tôi vẫn chưa hiểu vì sao) – thì việc học thuộc và hiểu tiếng Phạn không còn khó nữa. Việc phát âm chuẩn quan trọng đến mức tôi có thể phán đoán học lực, sự thông hiểu của các học viên khi nghe họ phát âm và tách chữ của một câu văn hoặc câu kệ tiếng Phạn.

2. Chuyên chú vào hình thức ngữ pháp, học 3 × 8 = 24 cách biến cách (declension) và 3 × 3 = 9 cách biến vị (conjugation) mà quên đi điểm cứu cánh của việc học Phạn văn là hiểu đúng văn bản, hiểu đúng ý nghĩa của một câu văn cũng như học và trình bày sở đắc tương xứng với trình độ đang được dạy. – Một số học viên, nhất là những người trước khi đến học với tôi đã biết chút ít Phạn ngữ, đặc biệt nhiệt tình “trổ tài” nhận ra các cách vị (case), số (number) và giới tính (gender) của danh từ và các biến vị của động từ (nhân xưng, số, thời thái và ngữ khí). Trong giờ kiểm tra bài tập, sau khi đọc những câu văn luyện tập xong, họ hăng hái phân tích ngữ pháp (từ loại, cách vị, liên thanh v.v…) từng từ một trong câu. Việc này không có gì đáng nói đến và trên nguyên tắc rất đúng, nhưng, nó chỉ được thực hiện trong bảy bài đầu, khi tám cách vị và ba số của danh từ đang được dạy và học viên nên ghi khắc vào tâm. Nhưng nếu đến bài 15 hoặc thậm chí bài 21 mà vẫn còn dùng cách “phân tích” kiểu này, phân tích từng từ một trong câu thì cách trình bày như vậy không xứng với trình độ học. Cách học và dịch những câu Phạn văn trên lớp phù hợp ở thời điểm này là dịch thật sát nghĩa với nguyên văn về mặt ngữ pháp. Có nghĩa là, các cách vị (ngoại trừ trực bổ cách, accusative, và hô cách, vocative) đều có thể được “phân tích” ngay trong câu dịch Việt, vì dụng cụ cách (instrumental) có thể được dịch Việt bằng “bằng, qua, với” và nếu thuộc loại dụng cụ cách xã hội (instrumentalis sociatīvus) là “cùng với.” Cho gián bổ cách (dative) thì ta có trong tiếng Việt “vì (mục đích), để cho, cho, đối với…” Tòng cách (ablative) có thể được miêu tả bằng “từ (nơi phát sinh), do hoặc vì (nguyên nhân)…” Sở hữu cách được miêu tả vòng bằng “của” hoặc “cho, đối với” nếu được dùng như một gián bổ cách (dative-like genitive). Vị trí cách (locative) được dịch là “nơi, ở, trong, trên….” Trong một câu văn được dịch chuẩn thì hầu hết những cách vị bên trên có thể được “nghe ra” khi học viên dịch sang tiếng Việt và tôi chỉ kiểm soát, hỏi vặn lại khi thấy có điểm không rõ khi dịch hoặc khi chính học viên không rõ, không tự tin lắm và hỏi lại tôi. Tựu trung: Phân tích tỉ mỉ cho chính bản thân thì là một điều cần thiết và được khuyến khích, nhưng khi lên lớp trả bài thì phải trình bày không được dài dòng dư thừa mà là ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ, không thiếu gì cả.

3. Điểm này tương quan trực tiếp với mục thứ hai ngay trên, tức là học viên học không phán đoán được học lực và mức độ thâm nhập Phạn ngữ của chính bản thân mình, để rồi từ đó hoang mang, một mặt chạy theo lớp đang học một cách cực nhọc và mặt khác, dành thời gian nghe lại những bài tối sơ của lớp trợ giảng hoặc lớp chuẩn bị cho khoá sơ cấp, với hi vọng “cứ nghe (thụ động) càng nhiều thì càng hiểu thêm.” Đây là một ngộ nhận rất lớn và cũng rất khó khắc phục. Học Phạn văn luôn có một tiến trình được đánh dấu bởi những thành tựu, và khi đã có những thành tựu này rồi – trong ý nghĩa thành tựu vững chắc không thoái chuyển – thì không cần phải nghe lại những gì đã được dạy trước đây. Nếu có cảm giác cần phải nghe lại bài giảng của những bài học trước bài đang học năm hoặc mười bài thì việc học hiện thời rõ ràng có chướng ngại phải được khắc phục. Giáo trình Phạn văn tiếng Việt được đặt trên cơ sở của từng viên gạch “bài học” nền tảng, và chỉ khi những viên gạch “bài học” theo trình tự này được đặt vững chắc, tức là được thấu hiểu một cách vô khiếm thì học viên mới được đi đến bài khác, đến cấp bậc khác và chỉ khi ấy, công trình học Phạn ngữ, hoặc có thể nói là sự nghiệp Phạn văn, mới có thể được tiếp tục. Bằng không thì việc học này tất không mang đến thành tựu gì cả. Người học Phạn văn phải hiểu từng chi tiết những gì được dạy trong mỗi đơn vị bài học rồi sau đó mới được đi đến bài kế đến.

4. Không chuyên chú vào cách đọc chữ Devanāgarī sớm như có thể. Mặc dù đã được cảnh báo ngay từ đầu khoá nhưng rất nhiều học viên có vẻ xao lãng việc này hoặc không quan tâm đến nó một cách xứng đáng để rồi sau đó phải kí âm La-tinh để đọc. Như vậy họ cần rất nhiều thời gian, để rồi mặt khác, thiếu thời gian cho những điểm quan trọng hơn cần phải học.

Nhiều người – có lẽ là những người ngoài chuyên ngành và có lẽ chưa từng học Phạn ngữ bài bản – phản bác việc học hoặc dạy học viên chữ viết Devanāgarī, như trường hợp một anh cư sĩ đã tuyên bố trong Đại hội Hoằng Pháp lần thứ nhất vào ngày 27.11.2021 vừa qua cho thấy. Anh viết (Zoom chat): “Học tiếng pali và tiếng sanskrit không cần phải học chữ devanagari, mà học bằng mẫu tự la tinh (IAST) như các nhà nghiên cứu Tây phương là đủ rồi. Tiếng pali và sanskrit không có chữ viết đặc biệt, và có thể viết bằng nhiều văn tự khác nhau.”

Nhận định bên trên rõ ràng không chính xác. Tôi có thể hỏi ngược lại ở đây ai là “các nhà nghiên cứu Tây phương” bên trên? Họ có là những người nghiên cứu ngành Cổ Ấn-độ học hoặc Phật học Ấn-độ hay không? Tôi chắc chắn họ không là những người thuộc ngành này và nếu lời nói của anh cư sĩ bên trên đúng thì các “nhà nghiên cứu” này chưa từng học qua tiếng Phạn và để nói một cách tích cực hơn: Tất cả những nhà nghiên cứu Tây phương đã học qua một khóa Phạn văn đều phải biết đọc chữ Devanāgarī. Có nhiều nguyên do vì sao một học viên học Phạn văn nên hoặc phải học chữ Devanāgarī. Thứ nhất là tỏ lòng tôn kính ngôn ngữ này cùng với bản xứ, nơi nó xuất phát và được gìn giữ cho đến ngày hôm nay; có nghĩa là tiếng Phạn được viết bằng chữ Devanāgarī bởi người Ấn-độ cho nên chúng ta cũng nên đọc được chữ này để tỏ lòng tôn kính cái mình đang học. Nguyên do thứ hai là học Phạn ngữ với mục đích đọc được thủ bản. Đại đa số thủ bản Phạn ngữ còn tồn tại được viết bằng một trong những loại chữ viết tương quan với chữ Brahmī, có thể được xem là tiền thân của chữ Devanāgarī sau này. Đọc lưu loát chữ Devanāgarī là bước đầu để đọc được những thủ bản cổ còn tồn tại được viết bằng chữ Proto-Bengālī, Proto-Bengālī-cum-Maithilī hoặc Newāri v.v…

Mặt phải lá bối bên trên chính là những dòng đầu của bộ kinh Duy-ma-cật sở thuyết tiếng Phạn được viết bằng chữ Proto-Bengālī-cum-Proto-Maithilī. Sinh viên học Phạn ngữ sau khi học khoá sơ cấp cùng với cách đọc chữ Devanāgarī sẽ đọc được chữ Proto-Bengālī-cum-Maithilī bên trên được ngay (với sự hỗ trợ của một bảng đối chiếu âm tiết, akṣara list) vì hai loại chữ viết này có cùng nguồn gốc. Nguyên do thứ ba là văn học chú giải Phạn ngữ: Có những bộ luận giải được viết bằng chữ Devanāgarī với chính văn được lồng vào đó. Vì bản chất quá cô đọng của những lời chú giải nên không nhà nghiên cứu hoặc dịch giả nào dịch nguyên một tác phẩm luận giải với nguyên lời chú giải từ Phạn ngữ mà chỉ dịch phần chính văn được chú thích. Vì vậy mà hầu hết tất cả những bản chú giải chỉ tồn tại dưới dạng bản in chữ Devanāgarī (vì chẳng ai phí công kí âm La-tinh cho người khác chỉ vì người ấy không đọc được loại chữ này), và ai muốn đọc nó để hiểu rõ chính văn thì phải đọc được chữ Devanāgarī.

Để kết thúc mục thứ tư này, tôi xin nói thêm là luận bàn về việc học đọc chữ Devanāgarī ở đây giống như trường hợp được người Đức gọi một cách châm biếm là “bão tố trong ly nước” (“Sturm im Wasserglas”), bởi vì đối với một người thực thụ học Phạn ngữ, học môn này tại Đại học để trở thành chuyên gia nghiên cứu thì việc học đọc chữ Devanāgarī chẳng phải là một điều đáng nói đến. Giáo sư trứ danh người Đức về Pāli là Oskar von Hinüber (Freiburg) bắt sinh viên của ông đọc được chữ này trong một (cuối) tuần và họ đã thực hiện được điều này. Riêng người viết những dòng này cần non hai tuần, rồi sau đó không bao giờ quay đầu nhìn lại. Đối với những người dạy Phạn văn, trình độ đọc và tách chữ Devanāgarī trong các bài tập cũng là thước đo khả năng thâu thần tập trung của học viên, và như vậy cũng là thước đo học lực và trình độ của học viên đó. Nhìn chung, việc học đọc chữ Devanāgarī không đáng bàn luận vì đây là một thành phần hệ thuộc rất tự nhiên của ngành Phạn học.

*

Tôi hy vọng là những mục nêu trên không làm nản chí người đang học hoặc muốn học Phạn ngữ. Nhưng mặt khác tôi cũng không muốn giản hóa một cách giả tạo những gì có bản chất phức tạp của Phạn ngữ để “khuyến dụ” người khác học. Một học viên tu sĩ có lần nói với tôi khi đọc Nalopākhyāna: “tiếng Phạn khó thật, không phải chỉ có tâm tha thiết muốn học là được.” Tuy nhiên, để kết thúc bài viết với một viễn cảnh tích cực, tôi cũng nên nói thêm là trong khóa sơ cấp hiện nay có một số học viên xuất sắc hiểu rõ tất cả những gì tôi đã viết bên trên. Đôi lúc tôi tự đặt cho mình câu hỏi: Có khi nào Phạn ngữ, được người Ấn-độ tôn kính gọi là Thiên ngữ, ‘ngôn ngữ của Chư thiên’ (devabhāṣā), chọn người học chứ không phải ngược lại? Càng dạy lâu môn này tôi lại càng có cảm nhận như vậy.

Trân trọng

Heidelberg, 13.06.2022
Trí Việt – Đỗ Quốc-Bảo

Share.
Leave A Reply

Exit mobile version