DẪN NHẬP
Rinpoche ra đời ở Thangme, Nepal, năm 1945. Lúc ba tuổi, ngài được công nhận là vị tái sanh của hành giả du già Sherpa Nyingma, Kunsang Yeshe, Lawudo Lama. Ngôi nhà của Rinpoche ở Thangme không cách xa hang động Lawudo, ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn của Nepal, nơi mà vị tiền nhiệm của ngài đã hành thiền trong 20 năm cuối đời. Bài mô tả của Rinpoche về những năm đầu đời của ngài có thể được tìm thấy trong sách của ngài, Cánh Cửa Mãn Nguyện, (Nhà Xuất Bản Trí Tuệ). Lúc mười tuổi, Rinpoche đến Tây Tạng và đã tu học, hành thiền tại tu viện của Domo Geshe Rinpoche gần Pagri, cho đến khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng vào năm 1959, khiến ngài phải rời khỏi Tây Tạng, để được an toàn ở Bhutan.
Rồi Rinpoche đến trại tỵ nạn của người Tây Tạng ở Buxa Duar, miền Tây Bengal, Ấn Độ, nơi mà ngài đã gặp Lama Yeshe, người trở thành vị thầy gần gũi nhất của ngài. Hai vị Lạt ma đến Nepal năm 1967, và trong vòng hai năm sau đó, đã xây dựng Tu Viện Kopan và Tu Viện Lawudo. Năm 1971, Lama Zopa Rinpoche mở khóa nhập thất Lamrim thường niên lừng danh đầu tiên, và đến ngày nay, khóa nhập thất này cứ tiếp tục ở Kopan.
Năm 1974, Rinpoche bắt đầu du hành khắp thế giới với Lama Yeshe để thuyết Pháp và thành lập các trung tâm Phật giáo. Khi Lama Yeshe viên tịch năm 1984, Rinpoche đã đảm nhận chức giám đốc tâm linh của Hội Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa (FPMT), và cơ quan này đã tiếp tục phát triển dưới sự lãnh đạo vô song của ngài. Là giám đốc tinh thần của các trung tâm Phật giáo, dự án và dịch vụ rộng lớn của FPMT gần bốn mươi năm, công hạnh từ thiện của Rinpoche đã chứng kiến sự tăng trưởng của các dự án từ thiện và hoạt động lợi lạc trên toàn thế giới. Bạn có thể tìm thêm thông tin chi tiết về cuộc đời và công hạnh của Rinpoche trên trang mạng FPMT.
Hàng ngàn trang giáo pháp của Rinpoche đã được Viện Lưu Trữ Trí Tuệ Lama Yeshe (Lama Yeshe Wisdom Archive) đăng tải trong dạng bản sao chép, sách và Pháp âm, hầu hết đều là giáo pháp miễn phí trên trang mạng của Viện Lưu Trữ này. Các bài Pháp khác của Rinpoche đã được ấn tống bao gồm Năng Lượng Trí Tuệ (đồng sáng tác với Lama Yeshe), Chuyển Hóa Vấn Đề Thành Hạnh Phúc, Lama Zopa Kính Mến và những bài khác do Nhà Xuất Bản Trí Tuệ (Wisdom Publications) ấn tống, cùng nhiều tập sách cầu nguyện và hành trì được FPMT Foundation Store đăng tải.
Ngày 13 tháng 4 năm 2023, lúc 9 giờ 30 sáng theo giờ Nepal, Lama Zopa Rinpoche đã thị hiện việc viên tịch. Rinpoche đã đến vùng núi trong thung lũng Tsum và phải trở về Kathmandu khẩn cấp vì bị say độ cao. Khi trở lại Kathmandu thì Rinpoche đã tắt thở và nhập định lần sau cùng (tukdam). Rinpoche được đưa trở về phòng của ngài tại Tu Viện Kopan, nơi ngài tiếp tục thời thiền trong thanh quang đến 10 giờ tối ngày 14 tháng 4. Khi Rinpoche chấm dứt thời thiền thì quá trình ướp thánh thể bắt đầu.
Thỉnh thoảng, trong khi thuyết Pháp tại nhiều trung tâm trên khắp thế giới, Rinpoche đã kể về thời thơ ấu của mình: ở Thangme, rồi ở Tây Tạng, nơi ngài đã đến khi lên mười, và cuối cùng là Ấn Độ, nơi ngài gặp Lama Thubten Yeshe lần đầu tiên, đó là sư phụ của ngài, và ngài đã trở thành đại đệ tử của Lama Yeshe, cho đến khi Lama viên tịch năm 1984. Ni Sư Ailsa Cameron biên soạn và hiệu đính.

Tôi không nhớ cha tôi trông ra sao. Tôi nghĩ rằng ông đã qua đời khi mẹ tôi đang mang thai em trai tôi, Sangye, và tôi còn là một đứa bé. Mọi người nói rằng ông có râu và không nói nhiều; họ mô tả ông là người điềm tĩnh và không dễ nổi cáu. Tôi không biết liệu ông có từng là một nhà sư hay không, nhưng tôi nghe nói là ông đọc kinh sách và làm lễ cúng dường (puja) cho người khác rất giỏi.
Cha tôi bị bệnh một thời gian trước khi qua đời. Một hôm, khi trở về nhà sau khi làm việc ở ngoài đồng, mẹ tôi thấy cha tôi ngồi im bên lò sưởi. Bà đã gọi ông: “Ba nó ơi, ông có muốn gì không?” nhưng ông không trả lời. Thân ông thẳng thóm; có thể ông đang ngồi thiền, nhưng tôi nghĩ mẹ tôi không nhận ra điều này. Bà đã kể chuyện này với bạn bè, nhưng họ không biết phải làm gì. Lẽ ra bà nên hỏi một vị lạt ma, nhưng tôi nghĩ sự hiểu biết của bà khá hạn hẹp. Bạn bè của bà chắc đã nghĩ rằng ông đã chết, nên bảo bà mang xác ông ra ngoài để hỏa thiêu.
Mẹ tôi đã không đến nhà hỏa táng, vì đó không phải là phong tục của người Sherpa. Tôi nghĩ rằng có thể cha tôi chưa thật sự chết khi ông được hỏa táng, rằng thần thức của ông vẫn chưa rời khỏi thân thể. Những người hỏa thiêu xác nói với mẹ tôi rằng “Ông ấy có vẻ như còn sống. Trông ông ấy không có vẻ như đã chết.”.
Tất cả những điều tôi nhớ về cha tôi là những bộ quần áo mà ông để lại trong nhà. Khi còn rất nhỏ, vào buổi tối thì chị tôi, em trai tôi và tôi thường ngủ chung trong áo chuba của cha tôi, được lót bằng lông thú. Đôi khi chúng tôi nói với nhau: “Cái này là của cha.”.
Khi cha tôi còn sống, gia đình chúng tôi khá giả hơn những gia đình khác một chút. Chúng tôi có nhiều tài sản, dù theo tiêu chuẩn sống của phương Tây thì có lẽ chúng tôi chỉ giàu về rác rưởi. Tuy nhiên, sau khi cha tôi qua đời, vì mẹ tôi mắc nợ nên tài sản của chúng tôi bị cưỡng đoạt. Mẹ tôi đã trải qua nhiều khó khăn, đặc biệt là sau khi tôi được sinh ra, khi nhiều thú vật của chúng tôi như bò cái Tây Tạng (dri), dê và trừu đã chết.
Mẹ tôi phải lo hết việc đồng áng, rồi vào rừng lấy củi, mất nhiều tiếng đồng hồ. Chỉ có chị tôi mới có thể giúp bà. Tôi và em tôi chỉ chơi với đá và gỗ ở ngoài đồng cả ngày, chỉ về nhà khi mẹ tôi gọi qua cửa sổ rằng đã có thức ăn.
Khi tôi còn rất nhỏ, người bạn thân nhất của tôi là một cậu bé không biết nói. Ngày nào chúng tôi cũng chơi với nhau. Cậu ta và tôi thích chơi những trò chơi có nghi lễ. Gần nhà chúng tôi có một tảng đá lớn, có các minh chú được khắc trên đó. Tôi sẽ ngồi cách tảng đá một chút và giả vờ đang ban lễ điểm đạo, trong khi những cậu bé khác phải cố gắng nhận lễ điểm đạo. Vì không biết bài cầu nguyện nào, nên tôi chỉ làm ồn và giả vờ như mình đang cầu nguyện. (Thật ra tôi nghĩ hiện nay tôi vẫn đang chơi như vậy.) Chúng tôi cũng giả vờ làm lễ cúng dường (puja). Một số cậu bé sẽ bắt chước âm thanh của chập chõa, trong khi những cậu bé khác sẽ làm thí chủ. Chúng tôi sẽ trộn đất và nước trên những viên đá nhỏ bằng phẳng, và các thí chủ sẽ dọn món này như thức ăn cho những cậu bé khác.
Vì có một vài tin đồn lan truyền về tiền kiếp của tôi, và vì tôi có ước nguyện mãnh liệt muốn trở thành nhà sư, nên khi mới ba hay bốn tuổi, mẹ tôi đã gởi tôi cho một trong những người chú của tôi, một nhà sư ở Tu Viện Thangme địa phương, để học chữ cái. Tôi đã được người nào cõng đến đó.
Lúc đó, tôi rất nghịch ngợm và chỉ muốn chơi đùa, nên không ở trong tu viện. Chú tôi thường dạy tôi chữ cái ngoài sân, dưới mặt trời, và khi chú vào bếp nấu thức ăn cho chúng tôi, thì tôi chạy về nhà mẹ tôi, rất gần tu viện. Tôi rất nhỏ bé và đơn độc. Cũng như bao đứa trẻ miền núi khác, tôi không đi chậm, mà đi như nước đổ, chạy ào xuống nhà mẹ tôi, dọc đường chẳng bao giờ ngừng lại để nghỉ mệt. Sau đó, tôi bị mẹ mắng và đuổi về tu viện. Tôi trốn về nhà khá nhiều lần.
Vì vậy nên mẹ tôi đã gởi tôi cho một người chú khác để đến Rolwaling, một khu hẻo lánh hơn nhiều, thuộc về Solu Khumbu. Tôi được đưa đến đó, trên mớ hành lý. Không có cách nào trốn khỏi Rolwaling để về nhà, vì bạn phải vượt qua những ngọn núi tuyết có dốc rất cao và nguy hiểm trong hai ngày. Đôi khi, khi người ta băng qua những con dốc dựng đứng phủ tuyết, thì sẽ có một trận tuyết lở, và tất cả mọi người sẽ biến mất.
Ở một thời điểm, khi có thể tự viết chữ cái Tây Tạng (chúng tôi không có viết, nên đã dùng than để viết trên mảnh giấy), tôi đã viết thơ cho mẹ tôi, mà chú tôi không hay biết. Tôi có ý lén lút, vì muốn về nhà, nên nói với mẹ rằng mẹ phải viết thơ nói rằng tôi nên trở về nhà. Tôi đã đưa bức thơ cho một người đang đi du lịch đến Thangme, nhưng một điều buồn cười đã xảy ra. Khi đến chỗ mẹ tôi, thì ông không tìm thấy lá thơ. Ông đã để nó trong đôi giày da của mình, và chắc hẳn đã đánh rơi nó khi dừng lại dọc đường để giũ tuyết trong giày ra.
Tôi đã đi lại giữa Thangme và Rolwaling ba hay bốn lần với thầy của chú tôi. Ông đã cõng tôi và cho tôi thức ăn mà ông đã chuẩn bị, trước khi chúng tôi rời khỏi nhà. Chúng tôi vừa đi và ông vừa đưa thịt đã nấu chín và các thức ăn khác cho tôi. Chỉ có tuyết lở một lần, một trận nhỏ thôi. Hành lý văng khắp nơi, người ta thì té xuống dốc, nhưng họ không lo lắng. Họ hát những bài hát, khi lượm đồ đạc của mình.
Có một ngọn núi rất nguy hiểm, nước chảy xuống từ trên núi và đá lớn nhỏ liên tục rơi xuống. Các tảng đá khổng lồ sẽ lăn xuống wooroodoo, và các tảng đá nhỏ sẽ rơi xuống tiiing như thế! Có rất nhiều tiếng ồn khác nhau. Thật đáng sợ. Tôi không biết tại sao, nhưng mỗi khi chúng tôi dừng lại thì mọi người sẽ uống rượu, loại mạnh nhất làm từ khoai tây. Người Sherpa chế biến khoảng mười ba loại thực phẩm khác nhau từ khoai tây, đây là thực phẩm chính của họ, và một trong những thứ họ làm là rượu rất mạnh. Ở Solu Khumbu, theo phong tục thì hầu hết mọi người, kể cả nhiều nhà sư cũng uống rượu, dù có một số người không uống.
Thế là mọi người sẽ uống một chút rượu, sau đó làm ấm bằng cách xoa tay. Rồi thì họ có thể khiêng mớ hành lý khổng lồ, thường là hai hoặc ba hộp bơ hình vuông, cùng với thức ăn, mền và những thứ để bán. Họ đã vượt qua những nơi có nước và leo lên những tảng đá để lên trên đỉnh núi, chỉ hy vọng là mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Chúng tôi đi đi lại lại vài lần, và làm sao mà không có tảng đá nào rơi xuống khi chúng tôi băng qua. Tuy nhiên, mỗi khi chúng tôi nghỉ ngơi và uống rượu sau khi lên đến đỉnh núi ở phía bên kia, thì những tảng đá sẽ rơi xuống woorooroo! Nhiều lần tôi nghĩ, “Ồ, ai đó sẽ thiệt mạng.”. Nhưng lần nào đá cũng rơi xuống ngay sau khi người cuối cùng đã băng qua. Suốt quãng đường đi, mọi người đều trì tụng bất cứ mật chú nào mà họ biết. Trường phái chính ở Solu Khumbu là Nyingma, nên hầu hết mọi người đều định tâm trì tụng mật chú Đức Liên Hoa Sanh.
Tôi không nhớ mình đã làm gì trong thời gian đó, có trì chú hay không, nhưng nhớ là đã được chú tôi cõng. Tất nhiên, ngay khi mọi người đến bờ bên kia, nơi không còn nguy hiểm, thì mọi lời cầu nguyện đều chấm dứt.
Tôi đã sống bảy năm ở Rolwaling. Thung lũng Rolwaling có dòng sông chảy ngang qua đó và những ngọn núi bao quanh. Ở một bên bờ sông là một tu viện, với một chánh điện (gompa) có những ngôi nhà khác bao quanh, nơi chú tôi, khi đó đã là một Tỳ kheo, và những vị lạt ma khác đã kết hôn, các hành giả đã nhập thất nhiều lần, nhưng không phải là nhà sư, và họ đã sống ở đó. Ngoài ra còn có một bảo tháp lớn trên đất bằng, với một con đường chạy qua ở giữa.
Ở bên kia sông là một bãi cỏ rất đẹp, nơi mà những người Tây phương đi bộ thường cắm trại. Vào mùa hè và mùa thu, khách du lịch sẽ đến Rolwaling – không phải lúc nào cũng vậy, mà chỉ đôi khi thôi. Những người Sherpa khuân vác sẽ hướng dẫn họ đến đó, và đôi khi đưa họ đến nhà thầy tôi, hoặc đôi khi chúng tôi sẽ đi xuống để gặp họ trong lều của họ. Tôi đã đến đó để gặp họ một hay hai lần.
Cây cầu bắc qua sông để đến đó chỉ là hai thân cây cột vào nhau. Bạn phải đi bộ trên đó, và nó không rộng lắm. Một hôm, tôi đi tặng khoai tây cho những người Tây phương trong trại — tôi không nhớ họ là ai. Thầy tôi bảo đừng đi, nhưng tôi nghĩ là tôi đã năn nỉ Thầy; dù sao thì tôi thật sự muốn đi để tặng khoai tây cho người Tây phương. Vì vậy nên thầy tôi để một số khoai tây trong cái hộp bằng đồng, dùng để ăn cơm hoặc uống chang, bia địa phương, và tôi đã đi một mình.
Tôi bước lên cầu. Con sông khá rộng, và khi đến giữa sông, theo tầm nhìn của tôi thì cây cầu bị nghiêng và tôi đã rơi xuống sông. Đầu tôi ngoi lên rồi lại hụp xuống. Sau này, theo lời thầy tôi kể lại thì lúc đầu, tôi đã trôi về phía thượng nguồn, sau đó trôi xuôi dòng. Tôi bị giòng sông cuốn trôi, thỉnh thoảng lại ngoi đầu lên. Lúc nào tôi cũng càng gần kề nguy hiểm hơn, đến chỗ dòng sông rất sâu, rất là sâu.
Một lần, khi đầu tôi ngoi lên mặt nước, tôi thấy thầy tôi từ tu viện chạy về phía dòng sông, khá xa tu viện. Có một vùng đồng bằng, rồi đến một ngọn núi khổng lồ, và tu viện trên sườn núi. Tôi thấy thầy mình chạy xuống núi, hướng về phía đồng bằng, vừa chạy vừa kéo chiếc quần may bằng vải đơn sơ mà thầy đang mặc.
Lúc đó, một ý tưởng phát sinh trong đầu tôi, rằng “Bây giờ thì người mà người ta gọi là “Lạt ma Lawudo” sẽ chết. Đây là kết cuộc”. Tôi không hiểu nhiều về giáo pháp và không có ý niệm gì về tánh Không, nhưng ý nghĩ này chỉ phát sinh mà không có sự sợ hãi. Nếu cái chết đến lúc này, thì tôi sẽ gặp khó khăn, nhưng lúc đó, tâm tôi hoàn toàn thoải mái. Không hề có sự sợ hãi, chỉ có ý tưởng là “Người mà người ta gọi là ‘Lạt ma Lawudo’ sẽ chết.”.
Khi vừa trôi đến vùng nước rất sâu, nơi rất khó để thầy tôi vớt tôi lên, thì cuối cùng thầy lại chụp được tôi và kéo tôi lên. Người tôi ướt sũng. Lúc đó tôi không chắc, nhưng tôi nghĩ thầy đã nói rằng: “Ta đã bảo con đừng đi!”. Tôi nghĩ sự kiện tôi rơi xuống sông và đánh rơi tất cả mọi thứ, cái hộp và khoai tây, phải là một khuyết điểm, vì không nghe lời thầy. Về sau, tôi nghe người khác, những người đứng nhìn sự việc xảy ra, nói rằng một trong những người Tây phương đi du lịch đã chạy đến đó với máy chụp hình, và chụp cảnh tôi được vớt ra khỏi nước.
Tôi đã sống ở Rolwalking bảy năm, học thuộc lòng các bài cầu nguyện và đọc kinh sách, kể cả toàn bộ hàng trăm bộ giáo lý của Đức Phật, Kangyur, và luận giải của các học giả Ấn Độ, Tengyur. Giới cư sĩ sẽ thỉnh chúng tôi tụng đọc những kinh sách này như lễ cúng dường (puja), nên thầy tôi phải đọc suốt ngày. Tôi không biết phải đọc bao lâu mới xong, tôi nghĩ chắc phải mất nhiều tháng. Đôi khi, tôi đã ra ngoài để đi vệ sinh, và đã ở đó rất lâu, chỉ ngồi chơi, chứ không mau trở lại thời khóa tụng đọc
Sau bảy năm, khi khoảng mười tuổi thì tôi và các chú của tôi đến Tây Tạng. Lý do mà chúng tôi đến đó là để thăm một người chú khác, đang sống tại Pagri, một khu thương mãi lớn. Trước tiên, chúng tôi đi bộ từ Rolwaling đến Thangme, rồi từ Thangme đến Tu Viện Tashi Lhunpo, và cuối cùng đến Pagri. Tôi có ý tưởng là chuyến đi mất sáu tháng, đi bộ mỗi ngày. Vì tôi còn rất nhỏ, nên không phải xách thứ gì, mà các chú của tôi đã xách toàn bộ hành lý.
Tôi đã ở Tashi Lhunpo, tu viện của Panchen Lama bảy ngày, nhưng từ lúc chúng tôi rời Solu Khumbu, lòng tôi đã quyết sẽ tu học ở Mindroling, tu viện Nyingma lớn nhất ở Tây Tạng, vì tất cả các tu viện Sherpa đều thuộc về phái Nyingma. Kế hoạch của tôi là đến tu viện này để tu tập. Có nhiều tu viện khác trên đường đi, nhưng tôi lại không muốn sống ở đó.
Trước đó, lúc bảy hay tám tuổi, tôi đã đọc tiểu sử ngài Milarepa ba hay bốn lần, chủ yếu là để tập đọc chữ cái Tây Tạng. Không hiểu sao vào lúc đó, tâm tôi rất sáng suốt và có ước muốn mãnh liệt sẽ trở thành một hành giả thật tốt, bằng cách tìm ra một vị đạo sư không sai lầm như Marpa, y như vị đạo sư mà Milarepa đã có.
Ở Tu Viện Tashi Lhunpo, tôi gặp Gyaltsen, một nhà sư người Sherpa giống như một vị dobdob (sư quản giáo kỷ luật); ông có một chiếc shemtab (y áo) dính đầy bơ và luôn mang theo một chiếc chìa khóa dài. Dường như ông không tu học hay tham dự các lễ cúng dường (puja), mà chủ yếu đi lại giữa tu viện và thành phố. Hai người chú của tôi cũng ở đó với tôi, và một người đàn ông Sherpa khác.
Chúng tôi không tham dự các puja, nhưng lại xếp hàng với chư Tăng để nhận tiền, khi puja kết thúc. Tôi nghĩ có lẽ Gyaltsen đã hướng dẫn chúng tôi. Đêm cuối cùng trước khi chúng tôi ra đi, Gyaltsen nhất quyết yêu cầu tôi ở lại và trở thành đệ tử của ông. Suốt đêm đó, tôi không nghĩ mình đã ngủ được! Tôi đang tự hỏi làm sao mình có thể thoát khỏi điều này, vì cả hai người chú của tôi đều đồng ý, rằng tôi nên ở lại đó và trở thành đệ tử của ông. Nhưng tôi không hề mong muốn trở thành đệ tử của ông chút nào, không nghĩ ra cách nào để trốn thoát, không biết mình có thể làm gì ngày hôm sau. Sáng hôm sau, may mắn thay, cuối cùng thì các chú của tôi cũng đồng ý cho tôi đi cùng họ đến Pagri.
Hai người chú của tôi, người chú đã sống ở Pagri, và một người họ hàng của chú là một ni cô, tất cả đều đến Lhasa để viếng thăm các tu viện và cúng dường. Khi họ đi vắng, tôi chỉ đi loanh quanh ở Pagri, mặc chiếc chuba cũ màu đỏ và đội một chiếc nón cũ. Không hiểu sao tôi đã có nghiệp để trở thành một nhà sư, bởi vì một ngày nọ, khi ra khỏi nhà của chú tôi, tôi đã gặp một nhà sư cao lớn, sư quản lý một trong những tu viện của Domo Geshe. Chắc hẳn do duyên nghiệp nào đó trong quá khứ mà ông liền hỏi tôi: “Con có muốn làm đệ tử của ta không?” và tôi nói, “Dạ muốn”. Tôi hỏi ông: “Ngài có thể giống như Marpa không?” và ông nói, “Được chứ.”.
Vì chú tôi đi vắng, nên ông đã nói chuyện với vợ của chú tôi, và bà đã chấp nhận lời đề nghị của ông. Ngày hôm sau, bà pha một bình trà, để đầy những ổ bánh mì tròn (bà làm bánh mì Tây Tạng rất ngon, ăn kèm với rất nhiều bơ) trong cái hộp của người Bhutan, được đan bằng tre và dẫn tôi đến tu viện, nơi mà sư quản lý ở, chỉ một vài phút đi bộ từ nơi chúng tôi đang sống.
Lúc đầu, sư quản lý không biết chuyện tôi được cho là một hóa thân, nhưng không hiểu sao ông lại nghe được chuyện đó. Để chắc chắn, ông đã phối kiểm vấn đề với một vị vấn linh. Vị vấn linh đã triệu thỉnh vị Hộ Pháp chính, liên hệ với tu viện, và sau đó sư quản lý hỏi vị Hộ Pháp chuyện này có thật hay không. Tôi có thể nhớ lời tiên tri được vị Hộ Pháp ban cho một cách rất mạnh mẽ rằng tôi là một lạt ma tái sinh.
Khi các chú của tôi trở về từ Lhasa, thì lại muốn tôi cùng họ quay lại Solu Khumbu. Tôi nói rằng tôi sẽ không trở lại nơi đó. Chú thứ hai của tôi, người mà tôi đã chung sống bảy năm trời, rất tốt bụng – dù vào lúc đó, tôi không biết chú tốt bụng như vậy. Chú đã đánh tôi.
Khi tôi bác bỏ ý định quay trở lại thì người chú khác của tôi – người đã sống ở Tây Tạng và là một doanh nhân – đã mang ra một bộ y mới bằng gấm mà chú đã mua ở Lhasa, đồ trang trí cho ngựa, tất cả mọi thứ! Chú chất đống tất cả mọi thứ và nói rằng: “Nếu con quay lại Solu Khumbu thì ta sẽ cho con tất cả những thứ này; nếu không thì con sẽ không được gì hết.”. Không hiểu sao lúc đó tôi không thích thú gì mấy với những thứ này. Tôi không nhớ là mình đã cảm thấy một sự lôi cuốn mạnh mẽ nào đối với những thứ mà chú sẽ cho tôi, nếu tôi đồng ý đến Solu Khumbu.
Vì tôi đã bác bỏ ý định trở lại Solu Khumbu, nên nhà sư quản lý của tôi đã đến phối kiểm với một trong những người đàn ông quyền lực nhất vùng đó, thơ ký của một gia đình rất giàu có và nổi tiếng, thí chủ lớn đối với tu viện của Domo Geshe Rinpoche. Khi sư quản lý hỏi ý của ông này, thì người thơ ký nói rằng tôi nên được đưa trở về Solu Khumbu.
Rồi tôi phải đến gặp vị thẩm phán trong quận. Trước khi ra tòa, tôi bị nhốt trong một phòng thờ rất tối tăm. Đúng ra thì các thí chủ địa phương nghĩ rằng tôi bị nhốt trong chuồng bò; những người phụ nữ quen biết tôi thường đến thăm tôi và nhét đồ ngọt và những thứ khác vào trong phòng, qua một cái lỗ nhỏ để cho tôi ăn.
Vị thẩm phán quận đến nơi và tôi được gọi đến trước mặt ông, không mặc quần áo (tôi không biết tại sao mình lại khỏa thân – tôi đã quên phần đó trong câu chuyện), và bởi vì phòng thờ, nơi tôi bị giam giữ rất tối và rất lạnh lẽo, nên toàn thân tôi run rẩy. Vị thẩm phán nói rằng tôi có quyền tự quyết định việc ở lại hay ra đi.
Vì vậy, tôi đã sống ba năm ở Pagri, thực hiện các puja tại nhà của người dân mỗi ngày, và đã thọ giới xuất gia getsul ở đó, tại tu viện của Domo Geshe Rinpoche, người được xem là hiện thân của Lama Tsongkhapa. Trước đó thì tôi không phải là nhà sư. Tôi đã thấy nhiều tu viện, nhưng không hiểu sao vì duyên nghiệp mà tôi chỉ trở thành tăng sĩ ở tu viện này trong phái Gelug. Tháng 3 năm 1959, người Trung Quốc chiếm Tây Tạng, nhưng vì khu vực đó gần Ấn Độ, nên không gặp nguy hiểm ngay trước mắt. Cuối năm đó, tôi được hướng dẫn để hành trì khóa nhập thất đầu tiên về Lama Tsongkhapa Guru Yoga, tại một tu viện gần đó tên là Pema Chöling, một chi nhánh thuộc về tu viện của Domo Geshe. Tôi không biết gì về thiền cả; tôi chỉ tụng bài cầu nguyện và một số migtsema. Tôi nghĩ mình đã hoàn thành khóa nhập thất, nhưng không biết mình đã thực hiện nó như thế nào, hay đã đếm những mật chú nào.
Cuối năm 1959, khi mối đe dọa bị tra tấn sắp xảy ra thì chúng tôi quyết định trốn sang Ấn Độ. Một ngày nọ, chúng tôi nghe nói người Trung Quốc sẽ đến Pema Choling trong hai ngày nữa. Cũng trong đêm đó, chúng tôi đã ra đi trong bí mật. Chúng tôi chỉ phải vượt qua một ngọn núi để đến Bhutan. Một đêm nọ, vì trời rất ẩm ướt và không thể nhìn rõ đường, nên chúng tôi gặp chút rắc rối, lún xuống bùn và bị trượt chân. Có những người du mục ở biên giới. Nếu họ nhìn thấy chúng tôi thì khó mà trốn thoát, vì nghe nói một số trong đám người du mục là gián điệp, nhưng dù chó của họ có sủa, họ đã không ra khỏi lều.
Cuối cùng, chúng tôi đã đến Ấn Độ. Chúng tôi đến Buxa Duar ở phía Bắc, nơi chánh phủ Ấn Độ cung cấp nơi trú ngụ cho chư Tăng từ các Tu Viện Sera, Ganden và Drepung, những người muốn tiếp tục tu học, cùng với chư Tăng từ các trường phái khác. Tất cả bốn trường phái đều được tập họp ở một nơi. Vào thời của người Anh, Buxa được sử dụng làm trại tập trung, nơi mà cả Mahatma Gandhi và Nehru đều bị giam ở đó. Nơi Mahatma Gandhi bị giam đã trở thành ni viện, và nơi Nehru bị giam trở thành chánh điện cầu nguyện của Tu Viện Sera.
Vì có một chi nhánh thuộc tu viện của Domo Geshe ở Darjeeling, nên dự tính của tôi là đến đó. Tuy nhiên, cảnh sát trưởng ở Buxa đã gởi tất cả các nhà sư khác trong nhóm của tôi đến Darjeeling, nhưng vì lý do nào đó, đã không cho tôi đến đó. Ông ấy nói một nhà sư khác nên ở lại với tôi ở Buxa. Chính vì viên cảnh sát này không cho phép tôi đến Darjeeling, nên tôi đã tu học ở Buxa. Tôi không biết tại sao ông ấy lại không cho tôi đến Darjeeling – không phải vì ông ấy đã ăn hối lộ.
Ở Buxa, cũng như nhiều nhà sư khác, tôi đã mắc bệnh lao vì khí hậu và điều kiện nghèo nàn. Tôi được một nữ tu người Anh thứ hai tên là Freda Bedi (nữ tu người Anh đầu tiên đã qua đời ở Darjeeling) mời đến Delhi. Cô đến thăm Buxa, nơi tất cả các nhà sư chung sống với nhau, và đặc biệt đến thăm tất cả các vị lạt ma tái sinh. Cô đã mời nhiều vị lạt ma tái sinh đến một ngôi trường mà cô đã bắt đầu dạy tiếng Anh cho họ. Tiếng Hindi cũng được dạy, nhưng tôi nghĩ mục đích chánh của cô là dạy tiếng Anh.

Tôi đã ở Delhi sáu tháng và đó là thời điểm tôi mắc bệnh lao. Đầu tiên, tôi mắc bệnh đậu mùa và phải ở lại bệnh viện đậu mùa mười lăm ngày, rất xa trường học. Khi trở về trường thì tôi bị bệnh lao, rồi vào bệnh viện lao. Tôi đã khóc ba ngày ở bệnh viện đó. Lý do tôi khóc là vì không có cơ hội học tiếng Anh. Lúc đó, không hiểu sao tôi lại có tham vọng học tiếng Anh rất lớn, nên đã khóc suốt ba ngày và không nói chuyện với ai, kể cả những cậu bé Ấn Độ trong cùng khoa ở bệnh viện.
Khi vào bệnh viện thì tôi phải mặc đồ của bệnh viện, quần và áo sơ mi. Vào giờ giải lao, tôi sẽ đi ra ngoài, nơi mà tôi có thể thấy xe cộ chạy ngang qua hàng rào. Tôi duỗi chân về phía hàng rào, kẹp cuốn sách tiếng Anh vào giữa hai chân rồi khóc. Những cậu bé Ấn Độ thường tụ tập quanh tôi và nói với tôi rằng: “Lama, đừng khóc. Đừng buồn!”. Nhưng tôi không nói chuyện với họ cả ba ngày.
Ở khoa dành cho đàn ông cao niên, tôi gặp một người đàn ông Ấn Độ rất tử tế, người đã đồng ý dạy tôi tiếng Anh. Tôi có một cuốn sách về tiếng Anh đàm thoại thông thường, do Thubten Tsering, thơ ký của Ling Rinpoche tặng cho tôi. Tôi thích cuốn sách này, và thường đến gặp người đàn ông Ấn Độ này trong phòng ngủ của ông, và học một số từ. Rồi thì tôi đã khỏe hơn.
Tôi đã ở lại Delhi sáu tháng, rồi cuối cùng phải làm bài thi Anh văn. Họ cũng sắp xếp để chúng tôi có một cuộc phỏng vấn với Thủ Tướng Jawaharlal Nehru. Ông rất già và da ông hơi xanh. Ông đang nằm, nhưng trên một loại ghế, chứ không phải giường.
Rồi thì tôi trở lại Buxa để tiếp tục học. Tôi đã học tranh luận một chút, nhưng giống như chơi hơn. Thật không may, tôi không nghĩ mình đã tạo nhiều nghiệp để nghiên cứu toàn bộ kinh sách. Tôi đã thọ giáo một số sách triết học, nên một vài dấu ấn đã lưu lại trong tâm.
Lúc đó, tôi nghĩ mình đã dành nhiều thời gian hơn cho việc học tiếng Anh, nhưng là cách vô ích, vì tôi đã cố gắng thu thập và ghi nhớ từ ngữ tiếng Anh như cách chúng tôi học kinh sách Tây Tạng. Tôi đã từng nghĩ đến việc học thuộc lòng cả cuốn từ điển. Cách học của người Tây Tạng đòi hỏi việc học thuộc lòng nhiều, nên tôi tin rằng nếu tôi học thuộc lòng nhiều từ vựng, thì sẽ ổn thôi. Tôi không biết là mình phải chú trọng vào giọng nói và luyện cách nói. Dù sao đi nữa thì cũng không có cơ hội thực hành ở Buxa, ngoài việc nói vài câu, khi gặp một vài quan chức Ấn Độ. Tôi đã học thuộc lòng rất nhiều từ trong những cuốn sách khác nhau và tất cả các tạp chí Time. Tôi sẽ quên rồi lại học thuộc lòng, quên rồi học thuộc lòng lại, quên rồi học thuộc lòng lại, giống như với kinh sách Tây Tạng. Tôi đã mất rất nhiều thời gian để làm việc này, nhưng vô ích, vì đó không phải là cách để học tiếng Anh.
Ở Buxa, tôi được Geshe Rabten Rinpoche giảng dạy, và lòng tốt của ngài đã khơi dậy bất cứ sự thích thú nào đối với việc hành thiền mà tôi hiện có. Và chính nhờ lòng tốt của Geshe Rabten mà tôi đã nhận ra vị thầy chánh của mình [Kyabje Trijang Rinpoche].
Geshe Rabten dạy về tánh Không và thiền shamatha, tuy còn rất nhỏ, nhưng tôi rất thích thú. Tôi cố gắng hành thiền trong khi ngồi trên giường, sau khi màn đuổi muỗi đã được phủ xuống. Tôi đã từng hành thiền về cái nắp bạc trên chén trà Tây Tạng của mình, dù không biết làm sao. Tôi cố gắng nhất tâm hành thiền, nhưng đã bị té! Không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng toàn bộ thân tôi đã rớt xuống đất. Chuyện này đã xảy ra nhiều lần, và cuối cùng, tôi đã bỏ cuộc. Dù sao thì trong ngôi nhà đó, có lẽ đã có một ấn tượng nhỏ nào đó từ kiếp trước. Đây là lý do mà tôi có chút hứng thú với lamrim hơn là hành thiền.
Dù sao đi nữa, sau đó thì Geshe Rabten rất bận rộn và đã gởi tôi đến một vị thầy khác từ Kham, tên là Yeshe. Từ vị thầy này mà tôi đã thọ nhận pháp thiền và quán tưởng về Ganden Lha Gyäma, và lòng tốt của các bà mẹ hữu tình trong phần kinh điển Bát nhã ba la mật đa (Prajnaparamita) nói về chủ đề đó. Vì không có sách, nên thầy Yeshe phải tụng thuộc lòng cả bài. Ở Tây Tạng, tôi chưa từng học chữ viết tiếng Tạng, mà chỉ tự mình học để có thể đọc sách, nên đã sao chép lại mọi thứ. Rồi vị thầy này, Yeshe, đến với Kyabje Trijang Rinpoche; sự sắp xếp này đã được quyết định, và chúng tôi đã ở bên nhau cho đến khi Lama viên tịch năm 1984.
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ;
Võ Thư Ngân hiệu đính.
Kyabje Lama Zopa Rinpoche
INTRODUCTION
Rinpoche was born in Thangme, Nepal, in 1945. At the age of three he was recognized as the reincarnation of Sherpa Nyingma yogi, Kunsang Yeshe, the Lawudo Lama. Rinpoche’s Thangme home was not far from the Lawudo cave, in the Mount Everest region of Nepal, where his predecessor meditated for the last twenty years of his life. Rinpoche’s own description of his early years may be found in his book, The Door to Satisfaction (Wisdom Publications). At the age of ten, Rinpoche went to Tibet and studied and meditated at Domo Geshe Rinpoche’s monastery near Pagri, until the Chinese occupation of Tibet in 1959 forced him to forsake Tibet for the safety of Bhutan.
Rinpoche then went to the Tibetan refugee camp at Buxa Duar, West Bengal, India, where he met Lama Yeshe, who became his closest teacher. The lamas went to Nepal in 1967, and over the next few years built Kopan and Lawudo Monasteries. In 1971 Lama Zopa Rinpoche gave the first of his famous annual lamrim retreat courses, which continue at Kopan to this day.
In 1974, with Lama Yeshe, Rinpoche began traveling the world to teach and establish centers of Dharma. When Lama Yeshe passed away in 1984, Rinpoche took over as spiritual director of the Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition (FPMT), which has continued to flourish under his peerless leadership. As spiritual director of the extensive network of centers, projects and services of the FPMT for almost forty years, Rinpoche’s philanthropic work has seen a proliferation of charitable projects and beneficial activities worldwide. More details of Rinpoche’s life and work may be found on the FPMT website.
Thousands of pages of Rinpoche’s teachings have been made available as transcripts, books and audio by the Lama Yeshe Wisdom Archive, and most are freely available on the Archive’s website. Rinpoche’s other published teachings include Wisdom Energy (with Lama Yeshe), Transforming Problems into Happiness, Dear Lama Zopa and others available from Wisdom Publications, and many prayer and practice booklets available from the FPMT Foundation Store.
On April 13, 2023, at 9.30 a.m. Nepal time, Lama Zopa Rinpoche showed the aspect of passing away. Rinpoche had been up in the mountains in the Tsum Valley and had to return urgently to Kathmandu as he was experiencing altitude sickness. On arrival back in Kathmandu, Rinpoche stopped breathing and entered his final meditation (tukdam). Rinpoche was taken back to his room at Kopan Monastery, where his clear light meditation continued until April 14 at 10 p.m. When Rinpoche had ended his meditation, the embalming process for the holy body began.
From time to time while giving teachings at various centers around the world, Rinpoche would tell stories of his childhood: in Thangme, then in Tibet, where he went when he was ten, and finally India, where he first met Lama Thubten Yeshe, with whom he would remain as heart disciple until Lama passed away in 1984. Compiled and edited by Ven Ailsa Cameron.
I don’t remember what my father looked like. I think he died when my mother was carrying my brother, Sangye, and I was a baby. People say that he had a beard and didn’t speak much; they describe him as a placid person who didn’t get upset very easily. I don’t know whether he was ever a monk, but I was told that he was very good at reading texts and doing pujas for other people.
My father was sick for some time before he died. One day after coming back into the house from working in the field, my mother saw my father sitting quietly by the fireplace. She called to him, “Father, do you want anything?” but he did not reply. His body was upright; it is possible that he was in meditation, but I think my mother didn’t realize this. She went to tell her friends, but they didn’t know what to do. She should have asked a lama, but I think her understanding was quite limited. Her friends must have thought he was dead, so they told her to take the body outside and burn it.
My mother didn’t go to the cremation because it is not the Sherpa custom. I think it is possible that my father was not actually dead when he was cremated, that his mind had not yet departed from his body. The people who burned the body told my mother, “He looks so alive. He doesn’t look dead.”
All I remember of my father are the clothes he left in the house. As very small children, my sister, brother and I would all sleep together at night in our father’s chuba, which was lined with animal fur. Sometimes we would say to each other, “This belonged to our father.”
When my father was alive, our family was a little better off than other families. We had many possessions, though according to Western standards of living we were probably only rich in garbage. However, after my father died, because my mother was in debt, our possessions were taken away by force. She had great difficulties, especially after I was born, when many of our animals—dris, goats and sheep—died.
My mother had to take care of all the work in the fields and then go to the forest to collect the firewood, which took many hours. Only my sister could help her. My brother and I just played in the field all day with stones and pieces of wood, coming back home when my mother shouted from the window that our food was ready.
When I was very small, my best friend was a boy who could not speak. Every day we would play together. He and I liked to play games involving rituals. Near our house was a large rock with mantras carved into it. I would sit a little way up the rock and pretend that I was giving initiations, while the other boys had to try to take them. I didn’t know any prayers, so I would just make some kind of noise and pretend I was praying. (Actually, I think I am still playing like that now.) We also pretended to do pujas. Some boys would imitate the sound of cymbals, while others would be the benefactors. We would mix earth and water on small flat stones and the benefactors would serve this as food to the other boys.
Because there were some rumors going around about my past life and because I had a strong wish to become a monk, when I was three or four years old my mother sent me to one of my uncles, a monk in the local Thangme monastery, to learn the alphabet. I was carried there on someone’s back.
I was very naughty at that time and only wanted to play, so I wouldn’t stay in the monastery. My uncle used to teach me the alphabet outside in the courtyard in the sun, and when he went inside to the kitchen to cook our food I ran away to my mother’s house, which was very close to the monastery. I was very small and alone. Like most mountain children, I didn’t walk slowly, but like water falling I ran down to my mother’s house, never stopping to rest along the way. My mother would then scold me and send me back to the monastery. I escaped to my home quite a number of times.
Because of this, my mother sent me with another uncle to Rolwaling, in a much more secluded part of Solu Khumbu. I was carried there on top of the luggage. There is no way I could escape from Rolwaling to my home because you have to cross very steep and very dangerous snow mountains for two days. Sometimes when people were crossing the steep snow slopes, there would be an avalanche and all the people would disappear.
At one point, when I could write Tibetan letters by myself (we didn’t have pens, so we wrote on pieces of paper with charcoal), I wrote to my mother without my uncle knowing about it. I had a sneaky mind, so because I wanted to go home I told my mother that she must write to say that I should come back home. I gave the letter to someone who was traveling to Thangme, but a funny thing happened. When he reached my mother’s place, he could not find the letter. He had carried it in his leather shoes, and he must have dropped it when he stopped along the way to shake the snow out of his shoes.
With my uncle teacher I went back and forth between Thangme and Rolwaling three or four times. He carried me on his back and gave me food, which he had prepared before we left home. As we walked he passed the cooked meat and other food back to me. Only once was there an avalanche, a small one. The luggage was scattered all over the place and the people fell way down the slope, but they weren’t worried. They were singing songs when they came up to collect their things.
There was a very dangerous mountain with water running down it and rocks, huge and small, constantly falling. The huge rocks would come down wooroodoo! and the small rocks would drop tiiing! There were a lot of different noises. It was terrifying. I don’t know why, but every time we would stop everyone would drink alcohol, the strongest one made from potatoes. The Sherpas make about thirteen different foods from potatoes, which is their main food, and one of the things they make is very strong alcohol. In Solu Khumbu it is the custom that most of the people, including many of the monks, drink alcohol, though there are some who do not drink.
So everybody would drink some alcohol, then generate heat by rubbing their hands together. They were then able to carry their huge loads across, usually two or three square butter tins, plus their food and blanket and things to sell. Just hoping that it would be all right, they crossed, climbing up through the water and rocks to the top. We went back and forth several times, and somehow no rocks fell while we were crossing. However, every time we were resting and drinking after reaching the top of the mountain on the other side, the rocks would come down woorooroo! Many times I thought, “Oh, somebody will be killed.” But every time, the rocks fell right after the last person had crossed. All the way across everybody recited whatever mantras they knew. The main sect in Solu Khumbu is Nyingma, so most of the people recited Padmasambhava’s mantra with single-pointed concentration.
I don’t remember what I did during that time, whether I recited any mantras or not, but I do remember that I was carried by my uncle. Of course, as soon as everybody reached the other side, where there was no danger, all the prayers stopped.
I lived for seven years in Rolwaling. Rolwaling Valley has a river running through it and mountains all around. On one side of the river was a monastery, with a gompa surrounded by other houses in which lived my uncle, then a fully ordained monk, and other married lamas, practitioners who did a lot of retreat but were not monks. There was also a large stupa on some flat ground with a road running through the middle of it.
On the other side of the river was a very nice grassy place where Western trekkers used to camp. In the summertime and in the autumn, tourists would come to Rolwaling—not all the time, just sometimes. Sherpa porters would guide them there and sometimes bring them to my teacher’s house, or sometimes we would go down to see them in their tents. Once or twice I went there to see them.
The bridge crossing the river to that spot was just two tree trunks tied together. You had to walk on that, and it wasn’t very wide. One day I went to give some potatoes to the Westerners in their camp—I don’t remember who they were. My teacher told me not to go, but I think I pushed him; somehow I really wanted to go to give the Westerners the potatoes. So, my teacher put some potatoes in a brass container used for eating rice or drinking chang, the local beer, and off I went, alone.
I walked onto the bridge. The river was quite wide and when I reached the middle of it, in my view the bridge tilted, and I fell into the water. My head came up, then went down again. According to what my teacher told me later, at first I was facing upriver, then later down river. I was carried along by the river, with my head coming up from time to time. All the time I was closer and closer to danger, to where river was very, very deep.
One time when my head came up, I saw my teacher running toward the river from the monastery, which was quite far away. There was some flat ground, then a huge mountain with the monastery a little way up it. I saw my teacher running down the mountain to the flat ground, holding up the simple cloth pants he was wearing.
At that time, the thought came into my mind, “Now what people call ‘Lawudo Lama’ is going to die. This is going to end.” I did not have much understanding of Dharma, and I had no idea of emptiness, but this thought just came. There was no fear. If death came now it would be difficult for me, but at that time my mind was completely comfortable. There was no fear at all—just the thought, “What people call ‘Lawudo Lama’ is going to die.”
I was about to reach very deep water where it would have been very difficult for my teacher to catch me, when he finally grabbed me and pulled me out. I was dripping wet. I’m not sure, but I think he said, “I told you not to go!” I think the fact that I fell into the water and dropped everything, the container and the potatoes, must be a shortcoming of not listening to my teacher. I later heard from some people who were watching that one of the Western tourists came with his camera and was taking pictures as I was being carried along by the water.
I stayed in Rolwaling seven years, memorizing prayers and reading texts, including all the many hundreds of volumes of the Buddha’s teachings, the Kangyur, and the commentaries by the Indian pandits, the Tengyur. Lay people would ask us to read these as a puja, so my teacher would read all day long. I don’t know how long they took to read—many months, I think. Sometimes I went outside to go to the toilet and would spend a lot of time out there, just hanging around. I didn’t return to the reading very quickly.
After seven years, when I was about ten, I went to Tibet with my two uncles. The reason for our journey was to visit another of my uncles, who was living at Pagri, a major trading center. First we walked from Rolwaling to Thangme, then from Thangme to Tashi Lhunpo Monastery, and finally to Pagri. I have an idea that the journey took us six months, walking every day. Because I was quite small, I didn’t have to carry anything; my uncles carried everything.
I spent seven days at Tashi Lhunpo, the Panchen Lama’s monastery, but from the time we left Solu Khumbu, my heart was set on going to study at the greatest Nyingma monastery in Tibet, Mindoling, because all the Sherpa monasteries are Nyingma. My plan was to go to this monastery and practice. There were many other monasteries along the way, but somehow I had no particular desire to live in them.
Earlier, when I was seven or eight years old, I had read Milarepa’s life-story three or four times, mainly to practice reading the Tibetan letters. Somehow at that time my mind was very clear, and I had a strong desire in my heart to be a really good practitioner by finding an infallible guru like Marpa, just as Milarepa had.
At Tashi Lhunpo I met Gyaltsen, a Sherpa monk who was like a dobdob; he had a black shemtab covered with butter and always carried a long key. He didn’t seem to study or go to pujas, but mainly traveled back and forth between the monastery and the city. My two uncles were there with me, and one other Sherpa man.
We didn’t go to the pujas, but got into the line of monks to get the money when the pujas finished. I think Gyaltsen probably guided us. On the very last night before we were to leave, Gyaltsen insisted that I stay and become his disciple. I don’t think I had any sleep that whole night! I was wondering how I could escape from this because both my uncles agreed that I should stay there and become his disciple. But I had not the slightest desire to become his disciple, couldn’t think of how to escape, of what I could do the next day. Fortunately, the next morning, my uncles finally agreed that I should go with them to Pagri.
My two uncles, my uncle who lived in Pagri, and one of his relatives who was a nun, all went to Lhasa to visit the monasteries and make offerings. While they were away, I just wandered around Pagri, wearing an old red chuba and an old hat. Somehow I had the karma to become a monk because one day, outside my uncle’s house, I met a tall monk who was the manager of one of Domo Geshe’s monasteries. It must be due to some past karma that he immediately asked me, “Do you want to be my student?” and I said, “Yes, okay.” I asked him, “Can you be like Marpa?” and he said, “Yes.”
Because my uncles were away he talked to my uncle’s wife, and she accepted his suggestion. The next day she made a thermos of tea, filled a Bhutanese container made of woven bamboo with round breads (she made very good Tibetan bread, served with a lot of butter) and took me to the monastery where the manager lived, just a few minutes walk from where we were living.
In the beginning the manager did not know the story of how I was thought to be an incarnation, but somehow he came to hear of it. To make sure, he checked with an oracle. The oracle invoked the main protector related to the monastery and the manager then asked the protector whether the story was true or not. I can remember that the prediction that I was a reincarnated lama given by the protector came in a very powerful way.
When my uncles returned from Lhasa, they wanted me to go back with them to Solu Khumbu. I said that I wouldn’t go back. My second uncle, the one with whom I spent seven years, was very kind—although at that time, I didn’t know he was being kind. He beat me.
When I rejected the idea of going back, my other uncle—the one who lived in Tibet and was a businessman—brought out a whole set of new robes with brocade, which he had bought in Lhasa, horse decorations, everything! He piled everything up and said: “If you go back to Solu Khumbu I will give you all these things; otherwise you won’t get anything.” Somehow I didn’t have much interest in those kinds of things at that time. I don’t remember having any strong attraction to the things he was going to give me if I agreed to go to Solu Khumbu.
Because I rejected the idea of going back to Solu Khumbu, my manager went to check with one of the most powerful men in that area, a secretary to one very rich and famous family, great benefactors of Domo Geshe Rinpoche’s monastery. When my manager asked his point of view, the secretary said that I should be sent back to Solu Khumbu.
I then had to go before the district judge. Before the court case I was locked inside a very dark shrine room. The local benefactors actually thought I had been locked inside a cowshed; the ladies who knew me would visit me and push sweets and other things for me to eat into the room through a small hole.
The district judge arrived and I was called in front of him, naked (I don’t know why I was naked—I’ve forgotten that part of the story), and because the shrine room where I was kept was very dark and very, very cold, my whole body was shaking. The judge said that I had the right to make my own decision as to whether to stay or go.
So I spent three years in Pagri, doing pujas in people’s houses every day, and I took getsul ordination there in the monastery of Domo Geshe Rinpoche, who is regarded as an embodiment of Lama Tsongkhapa. I wasn’t a monk before that. I saw many monasteries, but somehow because of my karma, I became a monk only in that Gelug monastery. In March 1959, the Chinese took over Tibet, but because that area is close to India, there was no immediate danger. Later that year I was instructed to do my first retreat, on Lama Tsongkhapa Guru Yoga, at a nearby monastery called Pema Chöling, a branch of Domo Geshe’s monastery. I didn’t know anything about the meditation; I just recited the prayer and some migtsemas. I think I finished the retreat, but I don’t know how I did it or what mantras I counted.
At the end of 1959, when the threat of torture was imminent, we decided to escape to India. One day we heard that the Chinese would come to Pema Choling in two days. That same night we very secretly left. We had to cross only one mountain to reach Bhutan. One night, because it was very wet and we could not see the road clearly, we had a little trouble, sinking into the mud and slipping over. There were nomads at the border. If they had seen us, it would have been difficult to escape because we had heard that some of them were spies, but even though their dogs were barking, the nomads did not come out of their tents.
Eventually we reached India. We went to Buxa Duar, in the north, where the Indian government housed the monks from Sera, Ganden and Drepung Monasteries who wanted to continue their studies, along with monks from the other sects. All the four sects were put together in that one place. During the time of the British, Buxa was used as a concentration camp, with both Mahatma Gandhi and Nehru being imprisoned there. Where Mahatma Gandhi had been imprisoned became the nunnery, and where Nehru had been imprisoned became Sera Monastery’s prayer hall.
Because there was a branch of Domo Geshe’s monastery in Darjeeling, my plan was to go there. However, the head policeman at Buxa sent all the other monks in my group to Darjeeling, but for some reason stopped me. He said one other monk should stay with me in Buxa. It was because this policeman didn’t allow me to go to Darjeeling that I came to study there at Buxa. I don’t know why he stopped me from going to Darjeeling—it wasn’t because he received a bribe.
At Buxa I, as well as many other monks, caught tuberculosis because of the poor conditions and climate. I was invited to Delhi by the second British nun, who was called Freda Bedi (the first English nun died in Darjeeling). She visited Buxa, where all the monks lived together, and she visited especially all the incarnate lamas. She invited many of the incarnate lamas to a school she had started to teach them English. Hindi was also taught, but I think her main aim was to teach English.
I spent six months in Delhi, and it was at that time that I developed TB. First I caught small pox and had to stay fifteen days in the small pox hospital, which was very far from the school. When I came back, I got TB, and then went to the TB hospital. I cried three days in that hospital. The reason I cried was that there was no opportunity to learn English. At that time I somehow had a great ambition to learn English, so cried for three days and wouldn’t speak to anyone, not even the Indian boys staying in the same ward.
When I went into hospital, I had to change into hospital clothes, pants and a shirt. In the break-times, I would go outside, where I could see the passing traffic through the fence. I would stretch my legs towards the fence, put my English book between my legs, and then I would cry. The Indian boys would gather around and tell me, “Lama, don’t cry. Don’t be upset!” but I didn’t speak to them for three days.
In the old men’s ward I met one very nice Indian man, who agreed to teach me English. I had a book that contained normal conversational English, given to me by Thubten Tsering, His Holiness Ling Rinpoche’s secretary. I liked this book and I used to go to see this Indian man in his bedroom and learn some of the words. Then I got better.
I stayed six months in Delhi then at the end had to do an English examination. They also arranged for us to have an interview with the Prime Minister, Jawaharlal Nehru. He was very, very old and his skin was kind of blue. He was lying down, but on a kind of chair, not on a bed.
I then returned to Buxa to continue to study. I did a little debating, but more like playing. Unfortunately I don’t think I have created much karma to study whole texts. I have received teachings on some of the philosophical texts, so some imprints have been left on my mind.
At that time I think I spent more time learning English, but in a useless way, because I tried to collect and memorize English words the way we learn Tibetan texts. I once thought to learn the whole dictionary by heart. The Tibetan way of learning involves a lot of memorization, so I believed that if I memorized a lot of words, it would be okay. I didn’t know that you have to concentrate on the accent and train in speaking. In any case there was no opportunity to practice in Buxa, apart from using a few words if you met some Indian officials. I memorized many, many words from different books, and all the Time magazines. I would forget and then memorize them again, forget and memorize again, forget and memorize again, just as with the Tibetan texts. I spent a lot of time doing this but it was useless; it wasn’t the way to learn English.
At Buxa I was taught by Geshe Rabten Rinpoche, whose kindness is responsible for whatever interest in meditation practice I now have. And it is because of the kindness of Geshe Rabten that I recognized my root guru [Kyabje Trijang Rinpoche].
Geshe Rabten taught on emptiness and shamatha meditation, and even though I was very small I was interested. I tried to meditate while sitting on my bed after the mosquito net had been put down. I used to meditate on the silver cover of my Tibetan tea bowl, even though I didn’t know how. I tried to meditate one-pointedly, but I fell down! I don’t know what happened; my whole body fell completely. It happened several times and eventually I gave up. Anyway, in that house there might have been a small impression from a past life. This is why I have some interest in lamrim, more than in meditation practice.
Anyway, after this Geshe Rabten was very busy and sent me to another teacher from Kham whose name was Yeshe. From this teacher I received the meditation and visualization on Ganden Lha Gyäma, and on the kindness of mother sentient beings from the part of the Prajnaparamita scriptures dealing with that subject. There was no text so the teacher, Yeshe, had to say it by heart. I hadn’t learned Tibetan writing in Tibet, just studied it myself so that I could read, and so I copied everything down. Then this teacher, Yeshe, went to Kyabje Trijang Rinpoche; this arrangement was decided upon and we were together until Lama’s death in 1984.