Thế là đã gần một phần tư thế kỷ rồi, bạch Ôn. Mỗi lần nhớ đến, con cứ tưởng rằng các sự kiện mới xảy ra ngày hôm qua.
Vào khoảng đầu tháng sáu năm1963, chùa Từ Đàm bị chính quyền Ngô Đình Diệm vây kín. Lúc đó, cuộc vận động cho bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội của Phật giáo trọng tâm còn nằm ở Huế, nơi phát xuất. Ôn là Tổng thư ký của ban lãnh đạo gồm 5 thành phần: Tổng Trị sự Hội PGVN tại TP, Tổng Trị sự Giáo hội PGVN tại Trung phần, hai ban Trị sự hội và Giáo hội tỉnh Thừa Thiên và Đại diện cho Tổng hội PGVN. Vì là Tổng thư ký của Hội PGVN tại thời ấy, nên con là Thư ký chung, có mặt thường xuyên bên cạnh quý Ôn, quý Thầy lúc đó tập trung tại Chùa Từ Đàm. Cũng trong những ngày đó, Hòa thượng Hội chủ, quý Ôn, quý Thầy đang tuyệt thực. Trong chùa có đến gần 500 người đủ mọi giới: tiểu thương, sinh viên, học sinh, hướng đạo, gia đình Phật tử v.v… đoàn thể nào cũng có trách nhiệm riêng.
Ngày 4.6.1963, chùa Từ Đàm bị đặt trong tình trạng nội bất xuất, ngoại bất nhập – các con đường dẫn vào chùa bị những vòng rào dây thép gai khép kín. Sau hàng rào kẽm gai là lính rằn ri, chen lấn với lớp đạo hữu chỉ biết đứng lặng nhìn vào. Có người sụp xuống lạy, vì đã 7 ngày rồi, quý Ôn quý Thầy tuyệt thực. Không phải chỉ có lính, có kẽm gai mà có cả những chiếc xe phát thanh suốt ngày chĩa loa vào chùa đọc thôngbáo của chính phủ rồi những bản nhạc liên tục.
Qua ngày thứ tư, sau loạt thông cáo thường lệ thì chiến dịch thay đổi:lời kêu gọi con em ở trong chùa trở về với gia đình. Anh em khóc với nhau: “Chiêu hồi… Chiêu hồi”. Chiều hôm ấy, Ôn ngồi trên tam cấp chùa, vẫy con lại ngồi bên. Im lặng, bỗng bên ngoài có tiếng gọi tên một người ra để mẹ gặp. Đó là một em thiếu niên gia đình Phật tử. Em ấy xin phép ra gặp mẹ. Mới đến cổng chùa 4, 5 chú cảnh sát vọt lên ôm chằm bỏ lên xe. Hành động thật bất ngờ làm ai nấy sửng sốt, Ôn nhìn con bùi ngùi. Con vụt đứng dậy. Ôn kéo con lại ngồi xuống bên, nhấn vào vai con. Lúc đó anh em gia đình Phật tử, sinh viên Phật tử, học sinh Phật tử tập trung trước giảng đường, la ó. Tôi ra lệnh im. Phía ngoài lại kêu một tên khác, và có thân sinh đến gặp. Không có tiếng đáp lại. Sau khi lục danh sách biết rằng không có tên ấy, chúng tôi trả lời là tên ấy không có ở đây. Thân sinh xin vào nhìn mặt. Chùa chấp nhận. Người ấy đi vào nhìn hết em này đến em khác, khi đến gần Ôn bèn nói nhỏ: con nói láo để được vào thăm quý Ôn quý Thầy. Nói xong, người ấy vội vã ra đi.
Tên một em nữa lại được gọi lên và thân sinh em ấy xuất hiện ở cổng chùa, gần gốc Bồ đề. Gọi đến tên, em ấy bước ra đến trước sân chùa hướng vào điện Phật lạy ba lạy từ tốn. Cả sân chùa im lặng, hồi hộp. Đó là một huynh trưởng. Em ấy đến xá Ôn ba xá, và nghiêm chỉnh đứng chào con theo lối gia đình Phật tử. Xong em Đ., đó là em đã được giao phó cầm biểu ngữ trong ngày Phật đản. Con có nhớ rõ, con trao cho em Đ. câu khẩu hiệu:
“PHẬT GIÁO ĐỒ NHẤT TRÍ BẢO VỆ CHÁNH PHÁP DÙ PHẢI HY SINH”
Sân chùa im phăng phắt, phía bên ngoài cũng im phăng phắt. Khi đến cách cha khoảng 10 thước, em cúi xuống lạy cha hai lạy. Con liếc mắt nhìn Ôn. Mắt Ôn sáng lên không khí thật ngột thở. Thân phụ em Đ. đứng lặng như trời trồng. Lạy xong, em Đ. tiến đến trước micro – pile để ở giữa sân chùa: “Thưa Ba, Ba thấy rõ ràng đó. Chùa không ép buộc chúng con ở lại trong chùa như lời rêu rao của chính quyền. Chính những dây kẽm kia và đoàn lính ở bên ngoài vây hãm chùa, không cho ai ra vào được đấy chứ! Xin Ba về yên tâm. Ngày nào những dây kẽm gai kia được dẹp đi, đoàn lính vây chùa không còn nữa, chúng con sẽ về. Kính lạy Ba và Mẹ. Em Đ. lạy hai lạy nữa rồi từ tốn bình thản bước vào hàng ngũ. Một tràng pháo tay nổi lên. Tôi ra hiệu im. Khi em Đ. đến xá Ôn, và chào con, Ôn kêu lại và bảo con cho Ôn mượn chiếc hoa sen. Con cởi huy hiệu vì con lãnh hội được ý của ôn rồi. Con mở chiếc hoa sen từ túi em Đ., và Ôn đứng dậy, nghiêm chỉnh không một lời cài chiếc huy hiệu hoa sen vào túi em Đ. Một viếng vang lên Phật tử – tinh tấn.
Bài ca Sen Trắng được vang lên trầm hùng và tiếp sau đó là bài “Kính mến Thầy”.
Tất cả sự kiện diễn tiến rất đột ngột, nhưng lại rất thích hợp – Ôn cũng đứng yên, cảm xúc hiện rõ. Nước mắt con dàn dụa vì sung sướng và cảm dộng. Không đầy năm phút. Thời gian như lắng đọng lại. Ôn kéo tay con vào văn phòng. Trên đường đi, Ôn thầm nhắc lại đến hai, ba lượt lời ca:
“DÙ BAO NHIÊU GIAN KHỔ, DÙ GẶP NHIỀU NGUY KHÓ, LÝ TƯỞNG CHÚNG CON VẪN TÔN THỜ”
Mười ba năm sau, năm 1976 trong lễ hiệp kỵ do Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Gia Định tổ chức tại Quảng Hương Già Lam trong lời huấn thị, Ôn đã dùng lời ca trên để làm đề tài nhắn nhủ. “Dù bao nhiêu gian khổ, dù gặp điều nguy khó, lý tưởng chúng con vẫn tôn thờ”. Chưa bao giờ con thấy lòng con rung động đến thế. Từng lời, từng chữ như thấm biến vào máu vào xương, vào từng hơi thở, từng nhịp tim. Khi ban hướng dẫn Gia Định mời con phát biểu, con xin im lặng, IM LẶNG NHƯ CHÁNH PHÁP.
Bạch Ôn, có lần nào – dù khi Ôn còn hay không còn ở lại với chúng con nữa – đến với Ôn chúng con lại không hát lên bài hát bất diệt ấy để dâng lên Ôn và cũng để tự nhủ mình!
Một lời ca, chỉ là một lời ca. Nhưng khi phát ra từ một vị lãnh đạo đã biến thành một huấn thị có giá trị đến muôn đời.