Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    Facebook Twitter Instagram Pinterest YouTube
    • Mục đích & Chủ trương
    • Tác giả
    • Liên lạc
    Facebook Twitter Instagram YouTube
    Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    • PHẬT HỌC
      • Đức Phật
        • Thánh đản
        • Thành đạo
      • Phật học phổ thông
      • Nghiên cứu
      • Giảng luận
      • Pháp thoại
      • Ứng dụng
      • Trích dẫn Phật pháp
    • KINH – LUẬT – LUẬN
      • Kinh
        • Giới thiệu kinh
        • Giảng giải
      • Luật
        • Luật học
      • Luận
    • PHẬT GIÁO VIỆT NAM
      • Lịch sử
      • Nhân vật
        • Chư Tôn đức
        • Cư sĩ hữu công
        • Tiểu sử
      • Sự kiện
      • Tưởng niệm
    • CHUYÊN ĐỀ
      • Dân tộc
      • Giáo dục
      • Khoa học
      • Xã hội
      • Triết học
      • Biên khảo
      • Phật giáo thế giới
      • Nhìn ra thế giới
      • Chuyên mục khác
    • TUỔI TRẺ
      • Đời sống
      • Hành trang
      • Gia đình Phật tử
    • VĂN HÓA
      • Xuân Vạn Hạnh
      • Quán Thế Âm
      • Kiết hạ
      • Vu Lan
      • Nghi lễ – Phong tục
      • Mỹ thuật – Kiến trúc
      • Âm nhạc
    • VĂN HỌC
      • Văn
      • Thơ
      • Truyện
      • Tùy bút
      • Phê bình
      • Giới thiệu – Điểm sách
    • PHẬT SỰ
      • Tin tức
    • THƯ VIỆN
      • Báo chí
        • Kỷ yếu
        • Tạp chí
        • Tập san
      • Sách
      • Tham luận
      • Luận văn
      • Tư liệu
      • Media
        • Audio – MP3
        • Video Clips
      • Hình ảnh
    • NGOẠI VĂN
      • General Buddhist Studies
      • Buddhism with Youth
      • Buddhist Education
      • Buddhist History
      • Buddhist Culture
      • Buddhist Literature
      • Buddhist Sociology
    Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    Home»VĂN HÓA»Vu Lan»Thị Nghĩa Trần Trung Đạo: Bà Mẹ lưu đày
    Vu Lan

    Thị Nghĩa Trần Trung Đạo: Bà Mẹ lưu đày

    02/08/20229 Mins Read
    HT Quang Do
    Share
    Facebook Twitter LinkedIn Pinterest Email

    (Vu Lan, đọc thơ về Mẹ của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ)

    Hôm đó là ngày 25 tháng 2, 1982, lúc 9 giờ 30 sáng, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) bị trục xuất khỏi Sài Gòn.

    Ngay sau khi lịnh trục xuất do ông Lê Quang Chánh, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố ký, được đọc xong, bốn công an võ trang áp giải hòa thượng ra xe đi Thái Bình. Khi bị triệu tập đến Sở Công An thành phố hòa thượng nghĩ mình sẽ lại phải trở vào tù. Nhưng không, lần này là lưu đày. Quá bất ngờ, hòa thượng không chuẩn bị gì cho chuyến lưu đày về quê hương.

    Nơi hòa thượng đến là chùa Long Khánh, xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Mẹ của hòa thượng cũng bị lưu đày về đó nhưng không đi cùng chuyến xe như một vài nguồn tin đã viết. Mẹ  gặp con dưới mái nhà lợp rạ bên vách tường vôi loang lỗ phía sau chùa Long Khánh.

    Nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn đến tìm Thầy để hỏi nghĩa của chữ Satori trong tác phẩm “Thiền học” của Suzuki đã mô tả nơi hòa thượng và mẹ sống năm 1982: “Nhiều loài rêu mọc trên những viên gạch lát, rêu chân tường, rêu mái ngói như những hoa văn tuyệt hảo của họa sĩ bậc thầy trang trí cho ngôi chùa thêm vẻ trầm tư. Con đường dẫn vào sân sau nơi có căn nhà rạ cũ ba gian hai chái và nhà bếp. Tôi dựa xe đứng ngơ ngẩn một lát chẳng thấy bóng người.”

    Và từ nơi đó, những năm tháng theo sau, một tăng sĩ 54 tuổi bị tước hết mọi quyền làm người chăm sóc bà mẹ già hơn 80 tuổi không biết tại sao mình phải lưu đày. Mẹ và con  sống trong thiếu thốn,  đói khổ, xa cách mọi người.

    thay QD
    (Ảnh tư liệu) Hòa thượng bị lưu đày tại chùa Long Khánh, xã Vũ Đoài, huyện VũThư, tỉnh Thái Bình.

    Nhưng với tư cách và lòng tự trọng của một bậc lãnh đạo tinh thần nhiều triệu Phật giáo đồ Việt Nam, hòa thượng không thấy cần phải mô tả một cách chi tiết hay than van về đời sống cháo rau khoai sắn của mình.

    Đạo tâm kiên cố đã giữ chiếc lưng của hòa thượng không hề cong xuống trước nghịch cảnh. Hòa thượng vẫn bước từng bước thẳng như những ngày Thầy bước xuống xe lam, đi bộ ngang qua chiếc sân rộng để vào dạy các lớp Phật Khoa trên lầu ba của đại học Vạn Hạnh. Thầy dáng cao, vầng trán rộng và miệng mỉm cười.

    Thấm nhuần tư tưởng đến là đi, có là không của đạo Phật, hòa thượng vẫn an nhiên trước mọi biến động và thử thách. Biệt giam ở trại tù Phan Đăng Lưu hay sống đói khát ở Vũ Đoài không làm hòa thượng than vãn với ai.

    Dù Thầy không viết lại, không kể lại, chúng ta cũng có thể  hình dung được những khó khăn của Thầy ở Thái Bình trong thời kỳ cả nước đều đói khát.  Ngoài các vấn đề tự do tôn giáo được Thầy bàn nghiêm túc,  phần lớn những câu chuyện Thầy kể  là chuyện vui cười. Nước mắt chỉ đọng lại trong thơ khi mẹ hòa thượng qua đời.

    Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ xuất gia năm 14 tuổi. Thầy rời nếp sống gia đình nhưng không có nghĩa là đoạn tuyệt với gia đình. Trên con đường còn rất xa dẫn đến bờ giác,  Thầy vẫn còn là một con người với tất cả gánh nặng trên vai và cần tình thương để sống. Mẹ là biểu tượng của tình thương và dòng suối đó vẫn êm đềm chảy.

    Sự gần gũi với mẹ bị gián đoạn khi Thầy rời quê hương du học ở Tích Lan và Ấn Độ năm 1952. Khi trở lại Việt Nam, Thầy đến miền Nam chứ không ra miền Bắc nên cũng không gặp lại mẹ.

    Những bài thơ hòa thượng viết về mẹ vào những năm xa mẹ:

    DÂNG MẸ

    Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương,
    Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải,
    Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể,
    Công sinh thành con nghĩ : quặn lòng đau.

    Gốc mai già xơ xác đã từ lâu,
    Chơ vơ đứng giữa đường đời gió lộng.
    Dòng sông chảy : ấy đời con trong mộng,
    Lững lờ trôi…, trôi mãi đến bao giờ?
    Có những đêm con thiêm thiếp trong mơ,
    Con mơ thấy hồn con về thăm mẹ.
    Được ấp ủ trong tình thương của mẹ,
    Mảnh hồn con ấm dịu biết bao nhiêu?
    Bốn phương trời con tìm kiếm đã nhiều,
    Nhưng không có một tình yêu của mẹ.
    Vu lan đến cõi lòng con quạnh quẽ,
    Bóng người xưa như phảng phất đâu đây.
    Một chiều thu lạnh dâng bát cơm đầy,
    Tình nghĩa ấy, mẹ ôi! bao thấm thía.
    Phương trời này con ngậm ngùi rơi lệ,
    Đức cù lao muôn một trả chưa xong.
    (Mùa Vu lan Quý Mão, 1963)

    XUÂN NHỚ MẸ

    Mỗi lần xuân đến gợi thêm sầu
    Con ở phương này Mẹ ở đâu
    Nam Bắc đôi bờ dòng nước bạc
    Trông vời bóng Mẹ khuất ngàn dâu

    Con đi từ độ trăng tròn ấy
    Trải mấy xuân rồi xuân viễn phương
    Trên vạn nẻo đường con cất bước
    Cõi lòng vương nặng mối sầu thương

    Mái đầu Mẹ nhuộm mầu sương tuyết
    Chồng chất đôi vai lớp tuổi đời
    Con muốn thời gian ngừng đọng lại
    Cho mùa xuân Mẹ mãi xanh tươi

    Thời gian vẫn cứ lạnh lùng trôi
    Hoa úa tàn phai trái chín mồi
    Chua xót lòng con niềm hiếu đạo
    Chân trời xa cách lệ tuôn rơi.
    (Giáp Thìn, 1964)

    LẠY MẸ

    Hơn hai mươi bảy năm trời cách biệt
    Mắt Mẹ đã mờ vì nhớ thương con
    Mẹ trông chờ bao ngày tháng mỏi mòn
    Nhưng chỉ thấy mây bay và gió thoảng

    Mẹ có ngờ đâu đời con phiêu lãng
    Như cánh chim trời xiêu bạt bốn phương
    Để giờ đây trong cảnh ngộ đau thương
    Cảnh tù ngục tối tăm và buồn thảm

    Con hối hận từ đáy sâu tâm khảm
    Đạo thần hôn đã lỗi phận làm con
    Tám mươi tuổi Mẹ có còn mạnh khỏe
    Hay hạc vàng đã cất cánh bay cao

    Cứ đêm đêm theo dõi những vì sao
    Nhìn Bắc đẩu con tuôn trào nước mắt
    Con quỳ xuống chắp hai tay trước ngực:
    “Lạy Đức Từ Bi cứu độ Mẫu thân
    Cõi Sa bà khi Mẹ đã mãn phần
    Cảnh Cực Lạc là quê hương An Dưỡng”

    Lòng chí thành nguyện cầu trong tâm tưởng
    Tháng năm dài con chỉ biết thế thôi
    Nghĩa thù ân chua xót lắm Mẹ ôi
    Con lạy Mẹ trăm nghìn muôn ức lạy!

    Sa Môn Thích Quảng Độ.

    Người viết chỉ là một giọt nước đọng trên cành đời nên không dám bình dòng sông thơ bát ngát của Thầy. Chỉ xin chép ra đây để độc giả đọc và cảm thông với hành trạng mà hòa thượng đã trải qua.  Mà cho dù có bình, có phân tích cũng không nói hết được tâm tư sâu lắng của Thầy. Hãy âm thầm suy niệm từ trái tim mình như hòa thượng, vì không được phép đọc sách, đã đọc “Vô Ngôn Thư” (Sách trong Thiên nhiên, trong Tự nhiên, trong Cảnh ngộ, trong Suy tưởng) suốt nhiều năm ở Thái Bình.

    HT Thich Quang Do 10
    (Ảnh tư liệu) Hòa thượng dịch Kinh sách.

    Như chiếc lá cuối mùa, một cơn gió thổi qua cũng làm cho chiếc lá chao nghiêng nói chi là cái rét của mùa đông miền Bắc. Mẹ của hòa thượng không chịu đựng nỗi đói khát và giá rét nên một ngày mùa đông chiếc lá khô kia đã rơi xuống trong sân chùa Long Khánh, xã Vũ Đoài. Hòa thượng viết bài thơ Nguyện Cầu trong đêm mẹ “chết trong lưu đày”:

    NGUYỆN CẦU

    Hỡi trời cao đất dày
    Có thấu cho cảnh này
    Mẹ tôi tội tình gì
    Phải chết trong lưu đày

    Trong cô đơn hiu quạnh
    Trong buồn tủi đắng cay
    Thôi cõi đời ác độc
    Mẹ vĩnh biệt từ đây

    Con nguyện cầu hồn Mẹ
    Vãng sinh về phương Tây
    Phật Di Đà tiếp dẫn
    Chư Bồ Tát dìu tay

    Trong hoa sen tinh khiết
    Hồn Mẹ hóa sinh ngay
    Vòng luân hồi chấm dứt
    Vĩnh viễn được yên vui.
    (Đêm 14 tháng 12 Ất Sửu, 23 tháng 1 năm 1985)

    Tết Bính Dần 1985 là Tết mồ côi của hòa thượng Thích Quảng Độ. Hòa thượng viết bài thơ mang ý nghĩa vô thường nhưng vô cùng đau xót dưới đây vào ngày Mùng Một Tết:

    MẤT CẢ CUỘC ĐỜI

    Xuân này tôi mất Mẹ rồi
    Cũng là mất cả cuộc đời còn chi
    Từ nay đoạn đường tôi đi
    Qua hàng thông lạnh gió vi vu sầu

    Một mình lặng lẽ cúi đầu
    Quanh tôi tất cả nhuộm màu tóc tang
    Bước đi nghĩa địa lan man
    Chết rồi hay sống điêu tàn như nhau.
    (Sáng mồng một Tết Bính Dần,1985, ra thắp hương ngoài mộ)

    Trong tình thương của mẹ, mọi người con đều là trẻ thơ. Hòa thượng cũng thế. Một mình một bóng trong nghĩa trang buồn ngày mùng một Tết. Từ nay, chỉ còn Thầy và hàng thông reo vi vu.

    Trong thư gởi Đỗ Mười ngày 19 tháng 8 năm 1994, hòa thượng chỉ tóm tắt một dòng: “mẹ tôi đã chết một cách thê thảm vào ngày 14 tháng 12 năm Ất-Sửu (tháng 1 năm 1985) vì quá thiếu thốn và rét mướt.”

    Một câu ngắn ngủi thôi nhưng chứa đựng cả một trời nước mắt và  cơn mưa nước mắt đó sẽ không ngừng rơi cho đến ngày dân tộc Việt Nam được đoàn viên thật sự. Bởi vì, mẹ không chỉ là mẹ của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ mà còn là biểu tượng cho sự chịu đựng vô bờ bến của mẹ Việt Nam, bà mẹ lưu đày.

    Thị Nghĩa Trần Trung Đạo
    Mùa Vu Lan 2022

    ht qd

    HT Thích Quảng Độ Trần Trung Đạo
    Share. Facebook Twitter Pinterest LinkedIn Tumblr Email
    Previous ArticleHuỳnh Kim Quang dịch: Ngài Thế Thân: Cuộc đời, Tác phẩm, Duy Thức, và Những tranh luận
    Next Article Thích Tâm Nhãn: Mùa Hiếu Hạnh – Chạnh lòng đức cù lao viết cho những người cha

    Bài viết liên quan

    Terry Lee dịch: Day Dream – Mộng Ngày của Hòa thượng Tuệ Sỹ

    27/09/2022

    HT Thích Nguyên Siêu: Vu Lan về, Mẹ là nguồn thi ca vô tận

    12/08/2022

    Quảng Tánh: Hạnh Hiếu thế thường của vị tỷ-kheo

    11/08/2022
    Add A Comment

    Leave A Reply Cancel Reply

    Bài mới

    HT Thích Như Điển: Vài nhận xét về ”The Tale of Kiều” của dịch giả Vương Thanh

    09/02/2023

    Đạo Sinh chú: Đập vỡ Ta ra, để thấy Ta

    09/02/2023

    Khánh Hoàng: Vài nét về Thiền Định trong Tam Giới qua Duy Thức Học

    06/02/2023

    Thích Tâm Nhãn: Nền y học cổ đại của Phật giáo và bộ kinh giáo dục đạo đức y khoa

    05/02/2023
    Mạng xã hội
    • Facebook
    • Twitter
    • Pinterest
    • Instagram
    • YouTube
    • Soundcloud
    Website Phật giáo

    Hội Đồng Hoằng Pháp | GHPGVNTN

    Phật Giáo Úc Châu

    Viên Giác Pagoda

    Quảng Ðức Homepage

    Thư Viện Hoa Sen

    Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam

    Làng Mai

    Hoa Vô Ưu

    Hương Tích Phật Việt

    GÐPT/VN Trên Thế Giới

    GÐPT Việt Nam

    Sen Trắng | Đạo tràng Lam viên bốn phương

    © Copyright 2022, ThuVienPhatViet.Com. All Rights Reserved
    • Mục đích & Chủ trương
    • Tác giả
    • Liên lạc

    Type above and press Enter to search. Press Esc to cancel.

    Go to mobile version