PHẬT HỌC TINH HOA
Một Tổng Hợp Ðạo Lý
Hòa Thượng Thích Đức Nhuận
Vạn Hạnh, Saigon Việt Nam xuất bản lần đầu năm 1961,
Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới, California xuất bản năm 1999
___________
Phần thứ nhất
Lịch Sử Khái Luận
Chương II
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
Sự xuất hiện đức Phật THÍCH CA MÂU NI trong thế giới loài người là một vinh hiển cho con người và cuộc đời. Ngài là kết tinh của muôn ngàn hương hoa “từ bi” và “trí tuệ”, là hiện thân của chân lý, một điềm lành cho hết thảy chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới. “Nếu cõi đời không đau khổ, tối tăm, đức Phật đã chẳng xuất hiện ở đời”. Ngài ra đời, vì mục đích trọng đại là Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến[1] cho chúng sinh, nên dù chúng ta có là Phật tử hay không, thiết tưởng cũng cần biết sơ lược về lịch sử, những diễn biến lớn của cuộc đời Ngài, là đức Phật THÍCH CA MÂU NI, vị giáo chủ khai sáng đạo Phật.
Ở đây, ta hãy tìm hiểu những nét chính của lịch sử ấy:
NIÊN ĐẠI ĐẢN SINH
Có nhiều thuyết khác nhau[2]. Theo thuyết phổ thông hiện nay, đức Phật đản sinh, thành đạo, Niết Bàn nhằm ngày trăng tròn tháng Vesak của sứ Ấn Độ, tức là ngày 15 tháng 4 âm lịch năm 623 trước Jésus Christ ra đời. Như vậy, tính từ khi đức Phật đản sinh đến nay là 2.595–1971, nhưng cuộc đại hội nghị Phật giáo thế giới kỳ II tại Tokyo (Nhật Bản) năm 1952, đã quyết định lấy năm đức Phật Niết Bàn làm ngày kỷ niệm “Phật lịch” thống nhất cho toàn thế giới=2.515–1971.
Và, từ ngày ấy đến nay, trong lịch sử nhân loại, đã trải qua bao nhiêu biến cố hưng suy, nhưng với đạo Phật vẫn tồn tại và triển khai, vẫn sống và vẫn sáng.
THÂN THẾ VÀ NƠI SINH THÁI TỬ
Thái tử Siddhartha (Sĩ Đạt Ta)[3], thuộc giai cấp Satriya (Sát Đế Lị) giòng Cakya (Thích Ca), một đại quí tộc ở Ấn Độ, con hoàng đế Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Mâyâdevi (Tịnh Diệu). Sử chép, khi gần ngày sinh thái tử, hoàng hậu phải trở về kinh đô Devadaha nước Koli (Câu li)–theo cổ tục đàn bà có mang phải về quê cha mẹ mình để sinh–và đản sinh thái tử ở vườn hoa Lumbini (Lâm Tì Ni), bên gốc cây Asaka (Vô ưu), nay là xã Ruminidhehi, thuộc quản hạt Aouth, phía tây nam của xứ Népal và phía đông Papti. Toàn cõi Ấn Độ chia làm nhiều tiểu quốc… Kinh thành chính nhà vua lúc bấy giờ có tên là Kapilavastu (Ca Tì La Vệ), nơi phát sinh đấng Đại từ bi phụ của hết thảy chúng sinh trong cõi tam thiên đại thiên thế giới.
Đản sinh thái tử được 7 ngày thì hoàng hậu Mâyâdevi tạ thế. Sau nhờ bà dì là Mahâprajâpati (Ma Ha Ba Xà Ba Đề)[4] trông nom, nuôi dưỡng thái tử cho đến khi trưởng thành.
Năm 1806, người ta tìm ra được một trụ đá của vua Asoka có khắc hàng chữ: “Chỗ này là vườn Lumbini (Lâm Tì Ni), nơi đức Phật đản sinh”.
HÌNH TƯỚNG VÀ TƯ CHẤT
Thái tử có 32 tướng quí, 80 vẻ đẹp. Nhà tiên tri Asita (A Tư Đà) khi xem tướng thái tử, có nói: “Nếu thái tử ở tại gia sẽ là một vị vua trên hết các vị vua chúa trong hoàn cầu, ngự trị cả năm châu; nhưng chữ vạn nổi ở trên ngực là điềm báo trước thái tử sẽ xuất gia thành Phật, làm chủ cả tam giới, dắt đường chỉ nẻo cứu độ cho hết thảy chúng sinh”.
Năm thái tử lên 7 tuổi, vua cha mời các đạo sĩ trứ danh thời bấy giờ vào dạy: Như học văn ông Visvamistra (Tì Sa Mật Đà La) và học võ ông Ksantidiva (San Đề Đề Bà), không bao lâu thái tử trở nên bậc văn võ toàn tài, tinh thông, và sở trường hơn hết là các môn nghị luận, triết lý, văn chương… Thái tử là vị thiếu niên bác học đương thời!
Năm 16 tuổi, thái tử vâng lệnh vua cha kết hôn với công nương Yasôddhara (Da Du Đà La)[5] và sinh hạ được một người con trai là Rahula (La Hầu La).
LÝ DO XUẤT GIA
Hiện trạng xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ luôn luôn sống trong tình trạng báo động, nghi ngờ, áp bức, bất công do giai cấp Bà La Môn giáo gây ra, nền luân lý cổ truyền gần như sụp đổ. Thái tử đau buồn nỗi đau nhân thế. Vốn là người giàu tư tưởng, khi tuổi mới lơn là tuổi hay thắc mắc, hoài nghi tất cả. Hơn nữa, thái tử là một thanh niên thông minh tuyệt vời, ưa tìm hiểu mọi việc. Nên, sau khi du ngoạn bốn cửa thành, thái tử đã cảm nhận bao nỗi thống khổ của trần gian: già, đau, sống, chết; bốn cảnh buồn tê tái ấy là những duyên cớ đã thúc giục chí xuất gia của Ngài mà không một sức mạnh nào có thể ngăn cản được. Không một con đường đầy hoa nào dẫn ta đến vinh quang mà không có sự thử thách. Mọi phán đoán đã định, người chí khí cao cả ấy nhất quyết từ giã hoàng gia, cắt ngang sợi dây tình ái với công nương Yasôddhara và Rahula, vượt thành, xuất gia[6], tu đạo giải thoát, hòng đưa muôn loài từ đau khổ, mê mờ tới hạnh phúc và ánh sáng chân lý.
Năm 29 tuổi[7], lúc đương đêm, thái tử cùng với tên hầu cận Chandaka (Xa Nặc) trung thành giong ruổi lên đường đến bờ sông Anoma, thì trời vừa hừng sáng, thái tử dừng lại nơi đây, đưa lưỡi kiếm lên ngang đầu xén mớ tóc của mình, cởi tấm áo cẩm bào vứt đi, khoác trên vai mảng y vàng của bậc xuất trần; rồi quay lại bảo Chandaka: “Chính vì đêm tối ta mới đi tìm ánh sáng”.
Qua bao nhiêu tháng năm, thái tử đã đi khắp đó đây tìm học ở các đấng tiên hiền, đạo sĩ trứ danh. Nhưng triết lý của vị nào cũng không được siêu thoát, nên thái tử đành bỏ đi nơi khác.
SÁU NĂM TU KHỔ HẠNH
Rồi từ đấy thái tử dấn thân trên con đường thiên lý, đến một khu rừng, gần làng Ouroubilva (cũng gọi là Dukarakrya, có nghĩa là Khổ Hạnh Lâm), nơi có con sông Nairanjani (Lilani), bên tháp núi Râdjagriha (Vương Xá), cảnh trí hữu tình, thái tử cùng 5 người Bhadravarglyas, đệ tử của ông Rudraka tu ở đây 6 năm. Trong bọn năm người[8] có Kaundinya (Kiều Trần Như) là hơn cả.
Bồ tát[9] tu ép xác cho đến nỗi gầy gò ốm yếu, có đôi khi tưởng đến sắp chạy theo tử thần. Mà nào có hiệu quả gì đâu? ngài nghĩ: “Thân thể có cường tráng thì tinh thần mới sảng khoái. Quá sướng hay quá khổ đều không phải lối tu chân chính[10]. Con đường dẫn đến giải thoát là Phải tránh xa hai thái cực ấy”.
Có một hôm, nàng Sujatâ, con gái của Nadica, vợ của trưởng giả Senani, thấy Bồ tát sức đã kiệt mới khuấy sữa với mật ong, đựng trong một cái bát bằng vàng dâng cúng, Bồ tát ăn xong bát sửa thấy người khỏe lại như thường. Năm đệ tử của Rudraka bỏ thầy theo Bồ tát, thấy thể lấy làm bất bình, lánh đi sang thành Béranès, ẩn tu trong rừng Mragadâ (Lộc Uyển)[11].
Bồ tát lúc này một mình một bóng đến xứ Goya, trải nệm cỏ bên một gốc cây Bodhi (Bồ đề)[12], ngồi thiền định ở đó và tự thệ nguyện lớn: “Nếu ta ngồi đây mà không tìm ra đạo lý nhiệm mầu, không tìm ra lẽ huyền bí của vũ trụ vạn pháp thì dù thịt nát, xương tan, ta quyết không rời bỏ chỗ ngồi này”.
Suốt trong 49 ngày suy tưởng, đến ngày cuối cùng khi vầng sao mai hiện lên lộng lẫy giữa bầu trời xanh thẳm, Bồ tát thấy thân tâm trở nên vắng lặng và sáng suốt, bao nhiêu cặn bã mê mờ và phiền não đều khoảnh khắc rũ sạch, giải quyết một lần những lẽ huyền bí của vạn pháp về vũ trụ, con người, về quan niệm sống chết, cả về tâm lý lẫn vật thể. Hàng triệu triệu điềm lành quyện lại bên gốc cây “bồ đề”, trái đất như chuyển mình, mây ngừng bay, gió ngừng thổi, tất cả như nghiêng mình kính cẩn tôn Ngài lên ngôi Đại Giác.
Ngài đã thành Phật với danh hiệu THÍCH CA MÂU NI (Cakyamuni). Năm ấy ngài 35 tuổi.
Công hạnh tu chứng của đức Phật, đánh dấu một quá trình cao cả: qua bao nhiêu chặng đường gai gốc nhưng rất huy hoàng của một đấng toàn giác.
Ngài đã thành công viên mãn!
45 NĂM THUYẾT PHÁP ĐỘ SINH
Trong năm thời thuyết giáo, hơn 45 năm ròng, lần đầu tiên, đức Phật đặt chân trên giải đất Béranès,bên bờ sông Nairanjanà, nơi rừng Mrigadâva, giáo hóa cho năm người đệ tử thuở xưa cùng tu với Ngài ở đây, mà lịch sử gọi là “Chuyển Pháp Luân=Dhammacakkharasutta”, cho tới khi giảng kinh Pháp Hoa, kinh Đại Niết Bàn.
Kinh Ariyapariyesana Suttam XXVI chép:
“Này các tỳ khưu, ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng đạo lộ, hướng đến tịch mịch, tuần tự du hành tại nước Magadha và đến tụ lạc Uruyelà. Tại đây, ta thấy có một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng (Neranjara) chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và chung quanh có làng mạc bao bọc, dễ dàng đi khất thực. Này các tỳ khưu, rồi ta tự nghĩ: “Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và chung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng khi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tiến. Và này các tỳ khưu, ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: “Thật là vừa đủ để tinh tiến”.
Rồi này các tỳ khưu, ta tự mình bị sinh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sinh, tìm cầu cái không sinh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn, và đã chứng được cái không sinh vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn, và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ác Niết Bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn, và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ác, Niết Bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách Niết Bàn, và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn, và đã chứng được cái vô sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn, và đã chứng được cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn. Và tri và kiến khởi lên nơi ta. Sự giải thoát của ta không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của ta, không còn sự tái sinh nữa’.
“Này các tỳ khưu, rồi ta suy nghĩ như sau: “Pháp này do ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng thì phần nhiều ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý. Idapaccayatà Paticcasamuppàda (Y tính duyên khởi pháp); thật khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sinh được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt. Niết Bàn. Nếu nay ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu ta, thời như vậy thật khổ não cho ta, như vậy thật bực mình cho ta! “Này các tỳ khưu, rồi các bài kệ bất khả tự nghị, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi ta:
“Sao ta nói chính pháp, được chứng ngộ khó khăn? Những ai còn tham sân, Khó chứng ngộ pháp này.
Được ngược dòng thâm diệu, Khó thấy, thật tế nhị,
Kẻ ái nhiễm vô minh,
Không thấy được pháp này”
Rồi này các tỳ khưu, với những suy tư như vậy, tâm của ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp. Này các tỳ khưu, lúc bấy giờ Phạn Thiên Sahampati khi biết được tâm tư của ta với tâm tư của mình, liền suy nghĩ: “Than ôi, thế giới đã tiêu diệt, thế giới sẽ bị hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A La Hán, Chính Đẳng Giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp”. Rồi này các tỳ khưu, Phạn Thiên Sahampati, như một nhà lực sĩ duỗi thẳng cánh Tay đã co lại, hay co lại cánh tay duỗi thẳng; cũng vậy, vị ấy biến mất từ thế giới Phạn Thiên và hiện ra trước mắt ta. Này các tỳ khưu, rồi Phạn Thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng vái ta và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn hãy thuyết pháp! Bạch Thế Tôn hãy thuyết pháp! Có những chúng sinh ít nhiễm bụi trần sẽ bị nguy hại, nếu không được nghe Chính Pháp. (Nếu được nghe), những vị này có thể thâm hiểu Chính Pháp”. Sau khi nói vậy, lại nói thêm như sau (lược dẫn):
… “Xưa, tại Magadha Bậc thanh tịnh chứng ngộ Như đứng trên núi cao
Nhìn xuống đám quần sanh Hãy đi khắp thế giới
Bậc Thế Tôn Chánh Giác Hãy thuyết vi diệu pháp Người nghe sẽ thấu hiểu”.
“Này các tỳ khưu, sau khi biết được lời Phạn Thiên yêu cầu, vì lòng từ bi đối với chúng sinh, với Phật nhãn ta nhìn quanh thế giới. Này các tỳ khưu, với Phật nhãn ta thấy có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn động căn, có hạng thiện tính ác tính, có hạng dễ dạy khó dạy, và một ít thấy sự nguy hiểm phải tái sinh thế giới khác và sự nguy hiểm có những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sinh ra dưới nước không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các tỳ khưu, với Phật nhãn, ta thấy có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, có hạng độn căn, có hạng thiện tính ác tính, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sinh thế giới khác và sự nguy hiểm có những hành động lỗi lầm…
“Này các tỳ khưu, rồi ta tự suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu Chính Pháp này?” Này các tỳ khưu, rồi ta tự suy nghĩ: “Nay có Alàra Kãlãma là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt đã từ lâu ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Alàra Kãlãma, vị này sẽ mau hiểu Chính pháp này! “Này các tỳ khưu, rồi chư thiên đến ta và nói như sau: “Bạch Thế Tôn, Alàra Kãlãma đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Rồi tri kiến khởi lên nơi ta: “Alàra Kãlãma đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Này các tỳ khưu, ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Alàra Kãlãma: Nếu nghe Pháp này, Alàra Kãlãma sẽ mau thâm hiểu! “Rồi này các tỳ khưu, ta lại nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chính Pháp này?” rồi này các tỳ khưu, ta lại nghĩ: “Nay có Uddhaka Rãmaputta là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời, ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho uddaka Rãmaputta. Vị này sẽ mau hiểu Chính Pháp này”. Rồi chư Thiên đến ta và nói như sau: “Bạch Thế Tôn, Uddaka Rãmaputta đã mệnh chung ngày hôm qua!”Rồi tri kiến khởi lên nơi ta: “Uddaka Rãmaputta đã mệnh chung ngày hôm qua!” Này các tỳ khưu, ta nghĩ: “Thật là một thiệt thòi lớn cho Uddaka Rãmaputta. Nếu nghe Pháp này, Uddaka Rãmaputta sẽ mau thâm hiểu”. Này các tỳ khưu, rồi ta suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chính Pháp này?”. Rồi này các tỳ khưu, ta lại nghĩ: “Nay nhóm năm vị tỳ khưu ở tại đâu?” Này các tỳ khưu, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy nhóm năm vị tỳ khưu hiện ở Bàrãnaĩ, tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các tỳ khưu, sau khi ở tại Uruvelà lâu cho đến khi mãn ý, ta lên đường đi đến Bàrãnasĩ.
“Này các tỳ khưu, rồi ta tuần tự đi đến Bàrãnasĩ, Isipatana, vườn Lộc Uyển, đi đến chỗ nhóm năm vị tỳ khưu ở. Này các tỳ khưu, nhóm năm vị tỳ khưu khi thấy ta đằng xa đi đến, đã cùng nhau thỏa thuận như sau: “Này các Hiền giả, nay Sa môn Gotama đang đi đến; vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã trở lui đời sống đầy đủ vật chất, chúng ta chớ có đính lễ, chớ có đứng dậy. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi”. Này các tỳ khưu, nhưng khi ta đi đến gần, năm vị tỳ khưu ấy không thể giữ đúng điều đã thỏa thuận với nhau. Có người đến đón ta và cầm lấy y bát. Có người sắp đặt chỗ ngồi. Có người đem nước rửa chân đến.Nhưng các vị ấy gọi ta bằng tên với danh từ Hiền giả (Avuso). Này các tỳ khưu, khi nghe nói vậy, ta nói với nhóm năm vị tỳ khưu: “Này các tỳ khưu, chớ có gọi ta bằng tên và dùng danh từ Hiền giả. Này các tỳ khưu, Như Lai là bậc A La Hán, Chính Đẳng Giác. Hãy lắng tai, pháp bất tử đã chứng được. Ta giảng dạy, ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các người không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại, mục đích vô thượng của Phạn hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các người sẽ an trụ”. Này các tỳ khưu, khi nghe nói vậy, nhóm năm vị tỳ khưu nói với ta: “Hiền giả Gotama, với nếp sống này, Hiền giả đã không chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến đặc thù xứng đáng bậc Thánh; thì nay làm sao hiền giả, với nếp sống sung túc, với sự từ bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống vật chất đầy đủ, lại có thể chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến đặc thù xứng đáng bậc Thánh”. Này các tỳ khưu, khi nghe nói vậy ta nói với nhóm năm vị tỳ khưu, Như Lai sống không sung túc, không từ bỏ tinh cần, không trở lui đời sống vật chất đầy đủ. Này các tỳ khưu, Như Lai là bậc A La Hán, Chính Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy lắng tai nghe Pháp bất tử đã chứng được. Ta giảng dạy, ta thuyết pháp…, và ta đã làm cho năm vị tỳ khưu chấp nhận”.![13]
Đức Phật đã chu du khắp nước Ấn Độ, từ cực bắc, dưới chân núi Himalaya, đến cực nam, bên ven sông Gange, nơi hang cùng ngõ hẻm, ở đâu có ánh sáng mặt trời là có dấu chân Ngài ở đó.[14]
Hơn 300 hội nói pháp, Ngài đã thâu nhận số đông đệ tử xin vào giáo hội, không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, thanh niên, già cả, nam hay nữ, người trí thức hay kẻ ngu si, tất cả… đều được đức Phật đưa vào Chính Pháp và coi như nhau, khác nào như cơn gió lốc thổi dồn các thứ lá lại một chỗ, đức Phật thuyết pháp cho hết thảy.
Với đức hy sinh, với lý tưởng cao cả, và với lòng thương vô biên của đức Phật, hàng vô lượng chúng sinh trên khắp hành tinh, đã tìm được lẽ sống cao đẹp cho mình, ngay trong cuộc đời đầy tội lỗi, xấu xa, ác độc…
Trải qua bao sương tuyết cuộc đời, đức Phật đã thắng trong mọi hoàn cảnh vẻ vang, vô cùng cao đẹp; đã tô đậm nét son trên trang sử nhân loại, tuyệt nhiên không vướng chút bạo tàn, với đức hiếu sinh và lòng từ bi quảng đại, đã xoay lại bất công muôn chế độ tàn bạo, phi nhân tính, để lại cho hậu thế một gương sáng láng vô cùng!
Và nét son rất tươi ấy, tươi mãi, đã mở đầu cho cuộc đời cao rộng đầy hương hoa trong một Kỷ nguyên Công Bằng, Tự Do và Chính Nghĩa.
ĐỨC PHẬT NIẾT BÀN
Năm 543 trước kỷ nguyên TL, bấy giờ đức Phật đã 80 tuổi, khi chí nguyện ước muốn đã thành, một hôm, ngài cho triệu tập các đệ tử từ khắp bốn phương lại mà di chúc những lời tối hậu:
“Này các con, hãy tôn kính tịnh giới, tịnh giới còn, đạo Ta còn. Những kinh luật, Ta đã dạy từ khi Ta thành Phật tới giờ, sẽ là nơi nương tựa, che chở cho các con. Những giáo pháp của Ta có những lợi ích, các con hãy cố gắng học và làm theo. Ở núi rừng, nơi bùn lầy nước đọng, bên bờ sông, dưới gốc cây, trong tĩnh thất, hoặc bất cứ nơi nào trầm lặng, các con hãy tưởng nhớ giáo pháp của ta. Đừng sao nhãng, vì một đời luống qua, không làm gì…, chỉ kết liễu trong ân hận hối quá!”.
Và – “Các con, hãy vì lòng từ bi rộng lớn, đi gieo rắc hạnh phúc cho đời, Đừng đi trùng nhau trên một ngả đường. Các con, hãy truyền đạo mầu nhiệm cho đời hiểu thế nào là cuộc sống cao cả, trong sạch, hoàn toàn và gương mẫu”.
Những lời vàng ngọc của đức Phật truyền dạy làm rung động đến tận cùng tâm thức của những người đệ tử mến yêu, cần phải suy nghĩ.
Trên đường đức Phật chỉ bảy, mỗi bước đi lên là mỗi bước tới gần ánh sáng chân lý.
Sau khi đã dạy bảo các đệ tử mọi lẽ, Ngài liền từ giã thành Sravasti (nay là thành Sateth Maheth) mà sang thành Kusinagarâ giữa hai cây Sala (tục gọi là cây bông vải: mộc miên), trong một khu rừng ở mé núi Hiranyavati và tịch diệt ở đây.
_________________
[1] Chữ trong kinh Pháp Hoa (Suddhamapundarika): Thế tôn, duy dĩ nhất đại sự nhân duyên cố, xuất hiện ư thế.
[2] Những niên đại đức Phật đản sinh theo các thuyết: 1023, 685, 624, 623, 566, 563, 561, 559, 557, 487 trước tây lịch, theo Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, trang 31.
Ở Việt Nam, đạo Phật từ khởi thủy cho đến ngày nay vẫn thường kỷ niệm trong những ngày:
– 8 tháng 4 đức Phật đản sinh
– 8 – 2 – xuất gia
– 8 – 12 – thành đạo
– 15 – 2 – niết bàn
Theo sử Trung Hoa ghi chép: Đức Phật đản sinh vào đời Chu Linh Vương trước kỷ nguyên khoảng 557 năm đồng thời với đức Khổng Tử.
Nước ta thuở xưa bị Bắc thuộc hàng nghìn năm; sự ảnh hưởng về tôn giáo, chính trị, văn hóa là những tập quán cố hữu, mà Đạo Phật Việt Nam hiện tại chưa thể một sớm một chiều xóa bỏ những ngày lễ trên, khi đã in sâu trong lòng những người con Phật kính yêu.
[3] Những tiếng riêng trong sách này đều được tôn trọng tính chất đặc biệt của chúng, trừ những chữ nào Việt hóa hoàn toàn, như tiếng Phật THÍCH CA MÂU NI. Ngoài ra, chúng tôi không phiên âm những chữ ấy, như người Trung Hoa đã phiên âm từ chữ Sanskrit (Phạn) ra chữ Hán.
[4] Mahaprajâpati Gautami là vợ lẽ của vua Suddhodana. Không biết tục lệ này có tự bao giờ: hai giòng họ Cakya và Koli đời đời thông gia với nhau. Vua Suddhodana cũng y theo tục lệ ấy mà lấy hai chị em con vua Anucakya nước Koki, là Mahamaya và Mahaprajapati Gautami.
[5] Công nương Yasôddhara, cũng gọi là Gopa, là em cô cậu với thái tử, và là con của bà Amita và vương tước Suprabuddha.
[6] Kinh Ariyapariyesanasuttam XXVI trang 163 chép: “…Sau một thời gian, khi ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt thân khóc, ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng đạo lộ, hướng đến tịch tịnh”
[7] Có thuyết nói: Thái tử, 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo. Nhưng nay, căn cứ theo bộ Trường A Hàm (Digha Nikaya) quyển IV trong đại tang kinh Phật giáo, thì Ngài xuất gia 29 tuổi.
[8] 1. Ájnàta Kaundinya (Kiều Trần Như), 2. Asvajit (A Thấp Bà), 3. Bhadrika (Bạt Đề), 4. Dasabala Kâsyapa (Thập Lực Ca Diếp), 5. Mahânâman (Ma Ha Nan).
[9] Từ đây gọi ngài là Bồ tát mà không gọi là thái tử nữa.
[10] Juvénal cũng nói câu tương tự: “Mans sa–na–in corpore sano=“Một tâm hồn trong sạch trong một thân thể tráng kiện”
[11] Nay đổi là Sarnath
[12] Trong cuốn “Triết Học Phật Giáo”, trang 42, Phan Văn Hùm có viết về cây bồ đề như sau:
“Cây Pippala, sau người ta gọi là Boddhidruma nghĩa là cây giác ngộ (Bodhi, ta đọc là bồ đề, nghĩa là giác ngộ. Druma nghĩa là cây). Còn chỗ đất ấy gọi là Bodhimanda, nghĩa là: Trường giác ngộ.
“Năm 623 sau kỷ nguyên, thầyy Hsan Tsang (Huyền Trang) qua Ấn Độ có tả cảnh cây Boddhidruma như sau: “Cây bồ đề này ở gần con sông Nairanjana. Đứng trong thành Ràjagriha trông thấy nó ở 15 dặm ngoài xa. Cội cây trắng xóa, lá xanh ngời”.
“Trong khoảng tiền thế kỷ XIX một người Anh, tên là Cunningham, có đến xem cây bồ đề, bảo rằng: “Cây Bodhi trứ danh ấy hiện nay vẫn còn, mà nó xơ xác rất mực: một cỗi to còn xanh tươi, có ba cành quay về hướng tây, còn mấy cành kia đã tróc sạch vỏ và mục rồi. Cây ấy có lẽ thường đổi thay, trồng đi trồng lại nhiều lần, bỡi vì cây pippala hiện nay đứng trên một cái giàn cao ít nữa là “30 pieds” trên cuộc đất chung quanh”.
Ông Oldenberg, người Đức, tác giả quyển Lịch Sử Đức Phật, bảo rằng năm 1976 cây boddhiruma bị bão, trốc gốc mất. (Arochaeel, Reports 1, 5 p 110 note, nouvelle édition)
[13] Trích kinh dẫn thượng, trang 167–172, trong bộ Najjhina Nikaya–tỳ khưu Th. Minh Châu dịch
[14] Lịch sử ghi – Trong thời gian mới xuất gia, thái tử đã tham học với các đạo sĩ trứ danh như các ông: Bhagàva, Aràlakàlama, Udraka Ramaputta, nhưng xét thấy tư tưởng triết lý của các vị này chưa được siêu thoát nên Ngài đã tự tìm cho mình một lối đi…
Và, sau khi giác ngộ, lần đầu tiên “chuyển pháp luân” tại vườn Lộc Uyển, thuộc nước Bàrànasi, đức Phật thuyết giảng về bốn chân lý (Catuariyasacca): Khổ, Tập, Diệt, Đạo để độ coh 5 pháp hữu đồng tu với Ngài thuở trước đó là các ông: Ajnàta Kaudinya, Aùsavjit, Bhadrika, Mahânâman, Dásbala Kàsyap. Ngôi Tam Bảo có từ đấy=Phật (Buddha) là Phật bảo, Pháp (Dharma) là Pháp bảo, Tăng (Sangha) là Tăng bảo. Cũng tại nơi đây, đức Phật còn độ cho trưởng lão Yasas và song thân của ông làm cư sĩ, gọi là Phật tử tại gia. Nam giới gọi là Upàsaka (Ưu Bà Tắc), Nữ gọi là Upàsika (Ưu Bà Di).
Đức Phật và đệ tử vân du các nơi để hóa đạo. Trước hết, ngài đến nước Magadha gặp 3 anh em ông Kàsyapa, thuộc hệ phái Bà La Môn giáo. Được ngài thuyết pháp cho nghe, lấy làm hoan hỷ nên cả 3 ông đã cải giáo quy y theo Phật. Đồng thời 1000 đệ tử của các ông cũng được Ngài hóa độ. Do đó, giáo đoàn của đức Phật mỗi ngày thêm bành trướng. Vua Bimbisàra (Tần Bà Sa La) của nước Magadha thì hết lòng sùng kính đức Phật nên đã cho xây Trúc Lâm Tịnh Xá (Venuvana Vihàra) ở núi Ghridhrakuta để cúng dường đức Phật làm nơi an trụ thuyết pháp. Cũng tại Tịnh Xá này, đức Phật đã độ cho 3 ông: Sàriputra (Xá Lợi Phất), Maudgalyvàyana (Mục Kiền Liên). Mahakàsyapa (Đại Ca Diếp) và đồng thời 250 đệ tử của ông Sàriputra và Maudgalyàyana cũng xin gia nhập tăng chúng. Từ đấy đệ tử của đức Phật đã tăng lên 1250 vị.
Lúc trở về kinh thành Kapilavastu thăm lần đầu, kể từ khi xuất gia tới sau ngày thành đạo, đức Phật đã hóa độ cho cả hoàng gia, trong đó phụ hoàng Suddhodana, Nanda (người em khác mẹ). Anada, Devadatta và Anurudha (cả 3 đều là em họ)…
Sau đó, đức Phật đến Rajagrha (Vương Xá Thành) hóa đạo cho vua Prasenajit (Ba Tự Nặc), thái tử Jita (Kỳ Đà) và trưởng giả Sudatta (Tu Đạt Đa) thuộc nước Kosala; sau ông này phát nguyện xây dựng Kỳ Viên Tịnh Xá (Jitavana Vihàra) để cúng dường đức Phật. Ngoài ra, vua nước Vesali cũng xây dựng một Đại Lâm Tịnh Xá (Mahàvana Vihàra) và thành lập 2 giảng đường=1) Mragàramàtuh Pràsada); 2) Kùtàgàrasàla để dâng cúng Phật. Nhưng 2 tịnh xá Venuvana Vihàra và jetavane Vihàra là nơi đức Phật đình trụ thuyết pháp nhiều hơn cả.
Sau 5 năm đức Phật thành đạo, thì phụ vương Ngài băng hà, chính phi Mahapajapati (kế mẫuu đức Phật) và công chúa Jasoddhara cũng được độ cho xuất gia làm bhiksuni.
Khi nói tứ chúng tức là chỉ cho bốn giới đệ tử: Tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc và ưu bà di.
Hàng đệ tử xuất sắc của đức Phật thì nhiều nhưng 10 có tên dưới đây là trứ danh hơn cả; trong kinh gọi là Thập đại đệ tử:
- Đại Ca Diếp (Kasyapa) tôn giả, bậc tu định đệ nhất.
- Xá Lị Phất (Sariputra) tôn giả, trí tuệ đệ nhất.
- Mục Kiền Liên (Maudgalyàyana) tôn giả, thần thông đệ nhất.
- Ca Chiên Diên (Kàtyàyana) tôn giả, nghị luận đệ nhất. (4 vị này thuộc giai cấp Bràhmanah (Bà La Môn giáo).
- A Nan Đà (Ananda) tôn giả, đa văn đệ nhất.
- A Nâu Lâu Đà (Anusuddha) tôn giả, thiên nhãn đệ nhất.
- La Hầu la (Rahula) tôn giả, mật hạnh đệ nhất. (3 vị này xuất thân từ giai cấp Ksatrya–hoàng tộc)
- Tu Bồ Đề (Subhùti) tôn giả, Thiền định đệ nhất.
- Phú Lâu La (Purna) tôn giả, biện tài đệ nhất.
(2 vị này thuộc giai cấp Vaisya, giai cấp bình dân…) - Ưu Ba Li (Upàli) tôn giả, trì luật đệ nhất. (vị này từ giai cấp Sùdra, giai cấp tiện dân, vốn đời làm nô lệ!)
Các đệ tử tại gia hộ trì chánh pháp về nam giới, có vua Bimbisàra và vua Ajàtasatru thuộc nước Magadha; vua Prasenajit của nước Kosala. Nữ giới có Videhi, Srimàla và vợ ông Tu Đạt là Sujàtà v.v…
Người đệ tử cuối cùng, trước giờ đức Phật Niết Bàn, được hóa độ là ông Tu Đạt Đà La (Sudhadra), 120 tuổi, thuộc Bà La Môn giáo.