CƠ HỘI ĐẠI HỌC*
THÍCH NGUYÊN HỒNG
Kính thưa quí vị,
Cùng toàn thể các bạn sinh viên,
Đã hai mùa khai giảng trôi qua và lần này là thứ ba tôi lại được Thượng tọa Viện Trưởng chỉ định hầu chuyện cùng quí vị và các bạn sinh viên để mở đầu cho mùa khai giảng đại học.
Mùa khai giảng 72-73 tôi dự định nói về vấn đề «Văn hóa giáo dục trong vai trò phục vụ đất nước». Mùa khai giảng 73-74 tôi sửa soạn đề tài: «Giáo dục và sự đào tạo tài nguyên nhân lực». Cả hai lần chuẩn bị vì thời cuộc không thuận tiện phải bỏ qua và Đại học đã khai giảng trong âm thầm không nghi thức. Lần này tôi lại được chỉ định mà đề tài do Thượng tọa Viện Trưởng đề nghị: Sinh viên trước ngưỡng cửa Đại học.
Hôm nay, tới giờ phút này tôi mới thấy chắc chắn và có một cảm giác khó tả khi được hầu chuyện cùng quí vị cùng các bạn sinh viên, trao đổi một vài quan niệm về giáo dục đối với người trí thức cũng như đối với tuổi trẻ trước hiện tình đất nước.
Thưa quí vị, cùng các bạn,
Quả thật chúng ta đang sống trong một thời gian khổ — gian khổ không vì đất nước nghèo, quê hương thiếu tình yêu. Gian khổ vì cuộc chiến tranh có tính chất ý thức hệ đang đọa đày tuổi trẻ làm tiêu hao sức sống dân lộc. Kinh nghiệm thường cho thấy cái gian khổ của thời cuộc bao giờ cũng tác động vào tâm hồn tuổi trẻ và tạo nên những thái độ. Gần gũi chúng ta nhất là thời du nhập nền văn minh Tây phương, thời kỳ đô hộ của người Pháp. Sau các hoạt động của các đảng Cần vương, Văn thân cùng các phong trào cách mạng liên tiếp thất bại thì lớp thanh niên tri thức Việt nam không còn một niềm tin nào nữa. Nền móng đô hộ đã vững chắc, số lớn sĩ phu bỏ cựu theo tân khuất thân làm nô lệ thì không cần phải nói làm gì, bọn thanh niên trí thức trước ngọn gió văn học lãng mạn Tây phương thổi vào như người chết đuối sắp buông hai tay thì vớ được vài ngọn bèo trôi cùng rác rến. Nơi đây họ gởi gắm cái sinh hoạt yếu ớt của những nỗi lòng còn thoi thóp sót lại. Họ kêu than cho số phận và không còn muốn tranh đấu nữa:
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh!
(VHC)
Họ kéo lê cuộc sống đảo điên trên sàn gỗ với men nồng để không còn muốn biết thực tại là gì:
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ…
Say đi em, cho lơi lả ánh đèn
Cung bậc ngã nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa và quên quên hết!
(VHC)
Quên là liều thuốc thần diệu để sống vì còn nhớ là còn tủi hổ, còn khóc than. Nhớ làm gì thuở vàng son Lý Trần, hãnh diện gì nữa cây văn hiến 4000 năm để tự đối chiếu mình hiện tại chẳng khác thân phận một con hổ trong cũi sắt:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở huy hoàng hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già…
để mà tiếc nuối dĩ vãng:
Than ôi thời oanh liệt nay còn đâu!
(T.L)
Nếu không say, quên, tiếc thương dĩ vãng, than thở và buồn khổ thì cùng chiến đấu một cách yếu ớt như «Đoạn tuyệt» hoặc tạo dựng một lý tưởng lãng mạn có tính cách cá nhân và xa thực tế như «Hồn bướm mơ tiên», «Nửa chừng xuân» hay «Anh phải sống» v.v… mà nền văn chương lãng mạn tiền chiến đã phản ảnh rõ rệt. Sự trạng phản ứng tâm lý trong văn học của lớp thanh niên trí thức thời ấy dù sao cũng khiến chúng ta ngậm ngùi cảm mến.
Thưa quí vị, cùng các bạn,
Tôi đã mạn phép dẫn giải một cách dài dòng như trên để rút một kinh nghiệm về phản ứng tâm lý của tuổi trẻ trong thời gian khổ hiện tại. Hơn nữa đối với các bạn tân sinh viên là một lớp vừa giã từ một cấp bậc học để bước lên một cấp bậc học cao hơn mà phương pháp học, thái độ học hoàn toàn khác hẳn các năm trước, vừa từ một thời kỳ tâm lý vị thành niên bước sang thời kỳ tâm lý của kẻ trưởng thành mà những xao xuyến, những thắc mắc, những suy tư trước thời cuộc làm vang động không ít vào đời sống học tập cũng như ý chí hành động. Ánh mắt sáng ngời trong vẻ mặt rạng rỡ của các bạn cho phép tôi nghĩ rằng niềm hy vọng chưa tắt trong tâm hồn các bạn như khoảng 1930 trong các đàn anh của chúng ta. Các bạn đã quần tụ nơi đây hít thở không khí Đại học cho dù sự trạng tuổi trẻ đổ xô vào Đại học tại Việt nam hiện nay phải được ghi nhận như một hiện tượng.
Trước hiện tình kinh tế và xã hội, mọi sự kinh doanh quốc nội có phần thu hẹp, đầu tư ngoại quốc hãy còn do dự đợi chờ nhân lực thừa thãi không biết sử dụng vào đâu, đó là một nguyên nhân. Còn một nguyên nhân nữa là không phải vì mảnh bằng Tú tài không dễ tìm được công việc an nhàn mà lương bổng hậu hĩ trong thời buổi này nhưng chính vì chỉ mới có «hoãn dịch học vấn» mà chưa có «hoãn dịch vì công ăn việc làm». Cho nên so với các nước về số thanh niên tốt nghiệp sau cấp 12 năm, nước ta đang chiếm tỷ số cao nhất thế giới.
Theo quan niệm của riêng tôi trước sự trạng đó, tôi không coi đó là điều bi quan mà muốn xem như một cơ hội. Một cơ hội tốt, một cơ hội đại học. Vì sao vậy?
Nhìn sang các nước có nền kỹ nghệ phát triển, có xã hội ổn định, một số không nhỏ thanh niên sớm muốn thoát ly gia đình để sống đời tự lập. Họ thích ra đời sớm, làm việc kiếm tiền và nếu siêng năng cần mẫn họ cũng có thể xây dựng được một cuộc sống tương đối vừa phải mà không cần đến bằng cấp tốt nghiệp Đại học. Còn những người tri thức cỡ giáo sư đại học thì một số lớn đã bỏ rơi bộ áo Giáo sư khả kính để trở thành cố vấn kỹ thuật, cố vấn luật pháp, điều hành, quản trị các cơ sở kinh doanh, các xí nghiệp, nhà máy mà số lợi tức đem lại cho họ gấp trăm lần số lương của nghề thở hụi phấn!
Cho nên tôi nghĩ rằng Đại học ngày nay chính là cơ hội tốt nhất để làm một cuộc đầu tư vĩ đại: đó là đầu tư trí thức, đầu tư nhân lực mà cổ nhân đã nói: «Cái kế hoạch trăm năm không gì bằng sự đào tạo người» (Bách niên chi kế mạc như thụ nhân.)
Đầu tư như thế nào? Đặt vấn đề này riêng tôi có hai quan điểm, một quan điểm về phía sinh viên và một quan điểm về phía người làm giáo dục Đại học.
Về phía sinh viên tôi chủ trương rằng trước hết hãy biết lợi dụng cơ hội. Đây không phải một thứ cơ hội chủ nghĩa của kẻ sống không lý tưởng. Cơ hội ở đây là điều kiện học tập là cái khí hậu Đại học mà chúng ta còn được cái may mắn đoàn tụ bên cạnh các giáo sư trong khi các vị ấy chưa trở thành những nhà doanh lợi về tiền bạc vật chất như các xứ có nền kinh tế và kỹ nghệ phát triển đang cướp giật nhân lực một cách hối hả. Chúng ta lợi dụng cơ hội đó để nuôi lý tưởng dấn thân phục vụ xã hội trong tương lai bằng công năng hàm dưỡng bằng sự trau giồi trí thức, khả năng chuyên môn để kịp thời sử dụng khi xã hội cần đến hay khi thời gian và hoàn cảnh thuận lợi cho chúng ta. Điểm thứ hai là xây dựng tư tưởng và thái độ học tập. Trong số các bạn tân sinh viên ngoài một số tự quyết định chọn Vạn Hạnh làm môi trường học tập, một số khác có lè không nhỏ đã chạy đôn chạy đáo và sau khi đã không lọt được vào các Đại học công lập và hôm nay đã đến đây với một tinh thần chưa hoàn toàn ổn định. Đó có thể gọi là tình trạng chung của sinh viên và gia đình. Ngoài cái yếu tố Đại học công miễn phí nhẹ gánh đài thọ cho gia đình còn một yếu tố tâm lý di truyền đó là tư tưởng trọng công khinh tư, công là uy quyền, tư có thể không được nhìn nhận giá trị. Nhiều người đã hỏi chúng tôi: bằng cấp của Vạn Hạnh có được nhìn nhận giá trị không? Có tương đương không? Chúng tôi thật cảm thấy chua xót trước câu hỏi nghi ngờ ấy. Sở dĩ chúng tôi nói chua xót vì nghĩ rằng giá trị có hay không là do tự chính nó chứ không phải do sự thừa nhận của một cấp chính quyền mà sự học trở nên có hay không có giá trị. Hơn nữa ở các quốc gia tiền tiến, giáo dục Đại học hoàn toàn tự trị về mặt điều hành cũng như học vụ chứ không bị ràng buộc hoặc lệ thuộc như ở các quốc gia chậm tiến. Lời phát biểu của giáo sư Viện Trưởng một Viện đại học quốc gia trong bài «Sự phát triển chương trình học tại Đại học đối với nhu cầu nhân lực » tại cuộc Hội thảo về «Phát triển Đại học và phát triển quốc gia» do Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên tổ chức tại Saigon từ 25 đến 27.4.1974 đã có một nhận định hết sức minh bạch và vô tư về tình trạng Đại học công lập và tư lập (Xin xem bài «Sự phát triển chương trình học tại Đại học đối với nhu cầu nhân lực», của Nguyễn Duy Xuân, tài liệu hội thảo của khóa hội thảo về «Phát triển Đại học và phát triển quốc gia» ngày 25-26-27.4.1974 do Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên tổ chức, trang 17 từ dòng thứ nhất đến cuối câu ở giữa dòng thứ 8, vì tác giả bài này cấm trích dẫn).
Điểm thứ ba, các bạn tân sinh viên khi bước vào ngưỡng cửa Đại học tức các bạn đang sửa soạn cho mình một kiến thức chuyên môn hóa mà các bạn sẽ theo đuổi suốt đời. Chu Hi giảng hai chữ Đại học là cái học của kẻ trưởng thành. Cái học của kẻ trưởng thành thì không thể nào chỉ biết tiếp nhận sự truyền thụ kiến thức một chiều hay là cái học mô phỏng mà là cái học của kẻ sẽ trở thành con người sáng tạo hoặc tái tạo. Người sinh viên phải tự tạo kiến thức chuyên môn của mình một cách có phương pháp chứ không phải lệ thuộc hoàn toàn vào tập giảng văn dày mỏng của giáo sư. Nghĩa là người sinh viên phải biết tham cứu, tìm dữ kiện đối chiếu sự kiện, phân tích sự kiện, tổng hợp để đưa đến thống kê kết luận, phải biết khám phá vấn đề, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề. Đó có thể nói là một vài nét đại cương chính yếu về thái độ và phương pháp học tập ở Đại học. Về phía nhà làm giáo dục Đại học thì luôn người ta vẫn kêu gọi sự nghiên cứu học thuật cao độ. Nghiên cứu, khám phá phải là công trình thường xuyên của người trí thức Đại học dù trên lãnh vực nào. Tình trạng xứ ta lời kêu gọi này trở nên cấp bách hơn, bởi lẽ cho đến nay trong lãnh vực công cũng như tư vì nhiều lý do làm trở ngại hay đình trệ sự nghiên cứu. Lý do thứ nhất là đồng lương thấp kém khiến người giáo sư Đại học cũng không thoát khỏi cái thân phận «ông giáo khổ» vất vả đến không còn thời giờ và sức lực mà nghiên cứu. Lý do thứ hai là sự bao biện quyền hành, khiến một số người tuổi trẻ có tài mất đi cái cơ hội dấn thân để làm được một cái gì mà nhiều lắm là chỉ đóng vai «một thứ người giúp việc» mà thôi. Người bao biện quyền hành thì làm sao thăng tiến cái tri thức chuyên môn hóa của mình còn thân phận người giúp việc là một thứ thừa sai phải lo cho chủ, còn đâu được cái tự do của học thuật! Lý do thứ ba là vấn đề ngân sách và nhân sự. Ngoài cái ý nghĩa bao biện còn có một loại kiêm nhiệm không phụ cấp lý do vì tình trạng thiếu hụt nhân sự và thiếu hụt ngân sách chứ lẽ đâu lại có ý muốn xài người cho đáng đồng tiền bát gạo? Dù vì lý lẽ nào sự kiêm nhiệm sẽ làm tổn hại tính cách chuyên môn hóa tức phản lại đường lối của Đại học. Những điểm tôi vừa phân tích trên đây thật không đáng cho chúng ta hãnh diện một tí nào nhưng tôi vẫn gọi đó là cơ hội Đại học vì dù sao người tri thức vẫn còn chưa xa rời cái khí hậu Đại học tuy là khí hậu đã có phần ô nhiễm. Người làm giáo dục Đại học nếu không điều chỉnh cho hợp lý thì lời kêu gọi Đại học phải nghiên cứu chỉ là lợi mỉa mai, vấn đề nghiên cứu của Đại học là một «mission impossible»!
Vấn đề thứ hai về phía nhà làm giáo dục Đại học là Đại học phải được đại chúng hóa. Một quan niệm không sai lầm là một Đại học tốt phải là một Đại học có một thư viện đúng tầm mức của nó chứ không phải chỉ kể về số đông sinh viên. Có khuôn viên rộng lớn, có thiết bị đầy đủ, có ban giảng huấn hùng hậu, có thư viện dồi dào là một đại học lý tưởng; điều đó rất đúng nhưng cũng rất cổ điển. Tôi nghĩ rằng quan niệm «dạy học không cần trường» của Ivan Illich không áp dụng cho Đại học được sao?
Một thí điểm dạy Sinh ngữ của ông ta ở một xứ quê vùng Nam Mỹ chi thu nhận những học viên trên 40 tuổi đã đánh đổ cái thành kiến cho rằng người lớn tuổi khó học sinh ngữ. Một số môn học mà ông ta đã dọn lại rút ngắn khoảng thời gian lê thê ở các chương trình Trung học vừa phí phạm tuổi trẻ vừa phí phạm nhân lực vẫn đem lại một kết quả tốt đẹp bằng một phương pháp mới, thực tế và tiến bộ đó là sự sử dụng trường học ngoài đời và ứng dụng cái bối cảnh về kinh nghiệm nghề nghiệp. Bernard H. Stern trong bài «College without walls: A Steadier’s view đã đưa ra một hình ảnh về tổ chức Đại học đó là Empire State College thuộc Viện Đại Học của tiểu bang Nữu-ước: một loại trường Đại học không có tường vách, không có lớp, không có chương trình, cấp bậc như các định chế hiện hữu. Bernard II. Stern đã làm khoa trưởng vào năm 1971 và trong khoảng tháng 9.1972 đến tháng 3.1973 ông ta đã tổ chức và hướng dẫn cho 42 sinh viên trong đó gồm đủ cả nam, nữ, chủng tộc, nghề nghiệp, tuổi tác (người trẻ nhất là 19 tuổi và người lớn nhất là 72 tuổi). Phương pháp giáo dục của Đại học không có vách tường này nhằm hướng dẫn các hoạt động học tập (learning activities) hơn là phụ thuộc vào chương trình đã vạch sẵn. Những sinh viên đến trường này với ý tưởng, thật rõ ràng về những hoạt động nào mà họ theo đuổi. Thí dụ người sinh viên 28 tuổi là một bà nội trợ có 3 con. Bà ta có hai nguồn hứng thú chính mà bà ta muốn kết hợp đó là nhi đồng và văn chương bằng cách khám phá một loại văn chương cho nhi đồng và do nhi đồng sáng tác. Đặc biệt chú trọng trên óc tưởng tượng của trẻ. Đại học không có vách tường đã xuất hiện đem lại cho sinh viên một sự rèn luyện học tập tự do mà không bị chế hạn về thời giờ hay trường sở bởi trường sở không phải là môi trường duy nhất cho hoạt động học tập. Nó xuất trình cho chúng ta thấy đó quả là một cơ hội để cải thiện và chuyển hóa kinh nghiệm về chương trình học, phương pháp và những ứng dụng thực tế. Nó không đòi hỏi một sự chi phí tốn kém, không đòi hỏi phải có cư xá, phòng thí nghiệm, thư quán, thư viện, cơ sở và thiết bị đồ sộ.
Hai kinh nghiệm mà tôi vừa nêu lên: Một là học không cần trường, hai là Đại học không có nhà vách có thể là hai đường hướng mới cho thấy sự tiến bộ của tư tưởng giáo dục trong tương lai. Như thế Đại học phải đại chúng hóa không có nghĩa mở nhiều trường học theo qui cách vạch sẵn trường nào cũng phải giống nhau, đại chúng hóa Đại học không có nghĩa thu nhận sinh viên thật nhiều, thật dễ dãi. Đại chúng hóa Đại học nghĩa là làm sao phổ cập kiến thức Đại học vào đại chúng càng nhiều càng tốt, càng nhiều lãnh vực càng hay bằng cách tạo điều kiện dễ dàng thuận lợi để hướng dẫn đại chúng phương pháp làm việc như Đại học để đạt được kiến thức và khả năng bậc Đại học.
Từ ý tưởng và kinh nghiệm của lvan Illich và Bernard H. Stern nêu trên, tôi nghĩ rằng tại sao chúng ta lại không thể lợi dụng cơ hội hiện tại, cơ hội mà thanh niên đang có nhu cầu học vấn ở bậc Đại học mà thiết lập những kiến thức Đại học vừa ít tốn kém về ngân quỹ điều hành vừa không đòi hỏi nhiều tiện nghi thiết bị mà có thể nâng cao trình độ quảng đại quần chúng và dắt dẫn họ đi từ kiến thức, phổ thông đến kiến thức chuyên môn hóa, đi từ kinh nghiệm đến sáng tạo. Chúng ta lại có thể lập một Đại học không cần có campus, không cần có phòng thí nghiệm và xưởng máy tốn kém, không cần có thư viện. Thí dụ chúng ta có thể sử dụng tất cả các thư viện hiện có. Nếu dạy về Giáo dục Thể dục và Sức khỏe (health and physicaleducation) chúng ta có thể sử dụng các hồ tắm, sân vận động, các hội thể thao, cho đến xa lộ, đồng quê, núi đồi, sông rạch v.v…Tổ chức về bộ môn sân khấu chúng ta cũng có thể sử dụng tài liệu trong các thư viện về mặt lý thuyết và thực tập quan sát tại các rạp hát, thuê mướn các phim để chiếu lại làm tài liệu học tập và được hướng dẫn bởi các nghệ sĩ hoặc tài tử v.v… Chúng tôi nghĩ rằng nếu cố gắng và có thiện chí đóng góp cho thế hệ ngày mai thì dù bất cứ lãnh vực nào như kỹ nghệ, kinh tế v.v… chúng ta cũng có thể thực hiện được miễn là nhà cầm quyền bớt đòi hỏi những điều kiện khắt khe, nhà trí thức chịu dấn thân và người học tập ý thức về sự cầu tiến hơn là câu nệ về bằng cấp.
Tóm lại hiện tình Việt nam quả là một cơ hội Đại học, cơ hội về phía người học cũng như cơ hội về phía những người tổ chức Đại học. Nếu chúng ta thiếu ý thức và lòng nhiệt thành tức chúng ta đánh mất cơ hội quí báu. Và như thế thì dù chúng ta có học đến đâu cũng chỉ là cái học hư văn không thiết thực, chúng ta có đỗ đạt đến áo mão xênh xang cũng chỉ là những ông nghè tháng tám để cuối cùng mai sau lại phải mượn hai câu thơ của Nguyễn Khuyến trong «Ngày xuân răn con cháu» để tự trách một thời đã qua rằng:
« Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già!»
Trân trọng kính chào quí vị.
THÍCH NGUYÊN HỒNG
__________________
* Nguyên đề tài là: «Sinh viên trước ngưỡng cửa Đại học», bài diễn thuyết mở đầu mùa Khai giảng niên khóa 74-75 tại Đại học Vạn Hạnh.
[Tạp chí Tư Tường số 48, 1975]