Mảnh trăng non quyến luyến ngọn tre, lung linh giải lụa ngà trên những vòm lá nhọn. Sương sớm như tấm chăn đơn mỏng còn phủ hờ vạn vật mà cánh cổng gỗ bên hông chùa Vạn Hạnh đã hé mở. Một bóng người nhỏ nhắn, trang phục gọn gàng, lách ra. Đó là người khách lạ phương xa, vào chùa xin nghỉ trọ đêm qua.
Người ấy đi về cuối sân chùa. Con ngựa dậm vó, vui mừng khi thấy chủ. Người ấy vỗ nhẹ đầu con vật thân yêu, tháo giây buộc, rồi thong thả dắt nó ra khỏi cổng tam quan. Cơn gió sớm đầu thu làm rụng đợt lá ngô đồng xạc xào trên thềm rêu vắng như những vẫy tay chào.
Đường mỗi lúc mỗi quanh co hiểm trở, trèo đèo lội suối, tới quá trưa, người và ngựa đều thấm mệt. Đã mấy ngày qua, lúc có thể đi thong thả trên đường vắng, lúc lại phải lẩn tránh chỗ đông người, nay dường như đã sắp tới nơi muốn tới. Người ấy bâng khuâng nhìn quanh rồi vuốt ve con vật, buộc nó nơi gốc soan già bên đường và thì thầm: “Ta phải đi thôi, Nhu Yên, ngươi hãy tạm nghỉ mệt nơi đây, thế nào lát nữa cũng có người đến nhận ngươi. Hãy ngoan với chủ mới, như cái tên ta đã đặt cho ngươi.”
Nhu Yên dậm vó, lúc lắc bờm, nhìn chủ. Nhưng chủ nó đã quay lưng đi nhanh về hướng chân núi Yên Tử.
Đường lên núi tím ngắt hoa sim, gập ghềnh sỏi đá. Người ấy vấp ngã nhiều lần nhưng mỗi lần gắng gượng đứng dậy, hình như người ấy cố bước nhanh hơn, như bị thúc đẩy bởi quyết tâm nào trong lòng…
Lên tới đỉnh núi, hai bàn chân người ấy đã sung vù, rớm máu, nhưng vẻ mãn nguyện hiện rõ trên gương mặt khi tiến vào thạch động.
– Trời! Bệ hạ …
– Quốc sư …
Hai người cùng quỳ xuống trước nhau.
Đó là vua Trần Thái Tông âm thầm rời cung điện, lên núi Yên Tử tìm Thiền sư Phù Vân với ý định đi tu.
Nước mắt lã chã tuôn rơi, nhà vua nghẹn ngào:
– Quốc sư đã thấu lòng trẫm rồi. Trẫm sớm mất mẹ cha từ thuở ấu thơ, chỉ có người bạn đời là niềm an ủi, hương lửa một ngày là trọng, huống chi đã hơn mười năm ròng, bao nhiêu là chia sẻ. Nay bị buộc phải phụ người, làm sao trẫm còn xứng đáng chăn dắt trăm họ. Đời trẫm cho đến phút này chưa từng được chọn điều mình mong cầu.
Thiền sư Phù Vân điềm đạm hỏi:
– Bệ hạ từng cầu điều chi?
– Trẫm chỉ cầu làm Phật.
– Phật ở trong tâm, không ở trên núi, không ở đâu khác, ngoài tâm. Nếu tâm lặng, trí huệ hiển bầy thì đó chính là Phật.
Nước mắt vẫn đầm đìa, vua ngước nhìn thiền sư.
Thay vì phải đỡ vua đứng dậy, thiền sư vẫn lặng lẽ trong thế quỳ đối diện thiên-tử. Chính trong giây phút lặng lẽ đó, giây phút của tâm-truyền-tâm mà nhà vua đã nghe rõ bốn tiếng “Phật ở trong tâm”, ngay nơi tâm đang quằn quại bi thương của mình.
Vua Trần Thái Tông trở lại triều đình, chấp nhận sự đau khổ Vô Thường của thế gian mà trong phút giây quá đau đớn, ngài đã tưởng là Thường.
Cậu bé mồ côi được sắp đặt để làm vua, mở đầu triều đại nhà Trần.
Hoàng Hậu Chiêu Hoàng bị giáng xuống làm Công Chúa vì chậm có con nối dõi.
Thuận Thiên Công Chúa lên ngôi Hoàng Hậu vì đang mang thai …
Tất cả cũng chỉ là những hạt cát vô thường, biến động trong biển cát vô thường mênh mông bất tận của tam thiên đại thiên thế giới.
Nhà vua rời Yên Tử với tín tâm vững chắc “Phật ở trong tâm” để trở về làm một vị vua anh minh, nhân hậu, lỗi lạc, anh hùng, đem lại thái bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Nhà vua đã hiểu rằng, là bậc quân vương, phải lấy ý dân làm ý mình, lấy tâm dân làm tâm mình.
Đến khi “những gì cần làm, đã làm” vua Trần Thái Tông bèn nhường ngôi ngay cho Thái Tử, rồi về rừng Vĩ Lâm, đất Hoa Lư, lập am Thái Vi, dốc lòng tu học.
Trang sử vàng son đời Trần có được chính là nhờ vị vua đầu tiên đã đem trí tuệ Bát Nhã, gieo hạt Bồ Đề trong tâm kiên cố. Phật đã ở trong tâm nhà vua từ phút rời Yên Tử với hai giòng nước mắt tuôn rơi, khi ngay cả ngai vàng cũng chỉ là đôi dép rách!
Chỉ liễu ngộ câu “Phật ở trong tâm” mà vua Trân Thái Tông đã dựng nên cả một triều đại huy hoàng, cả một thời hưng pháp với những vị vua tâm thành mộ đạo, nhất là vua Trần Nhân Tông – đời vua thứ ba của nhà Trần – đã khai sáng dòng thiền Trúc Lâm trên núi thiêng Yên Tử, như nguồn suối vi diệu chảy mênh mang bất tận đến ngày nay.
Dân tộc Ấn Độ có vị Hoàng Tử rời cung vàng điện ngọc, khoác áo sa-môn, lang thang sống đời khổ hạnh quyết tìm ra con đường cứu khổ muôn loài.
Đạo Giác Ngộ đó, đến nay, đã hai mươi sáu thế kỷ, vẫn là đuốc soi đường cho chúng sanh vượt thoát vòng luân hồi khổ đau, đạt tới cõi vô sinh bất diệt.
Dân tộc Việt Nam có vị vua, noi gương cha, ông, khi ngự trên ngai vàng, đã làm tròn sứ mạng đánh đuổi ngoại xâm, giữ gìn bờ cõi; khi nước thịnh dân an bèn nhường ngôi cho Thái Tử, một mình chống gậy trúc lên núi Yên Tử, với quyết tâm đi tìm chính mình.
Hạt đã gieo, tất hoa sẽ trổ.
Chính nơi hang động thâm u trên non thiêng Yên Tử đó Ngài đã chứng đắc và khai sáng dòng thiền Trúc Lâm mang nét đặc thù của văn hóa con dân nước Việt.
Dòng thiền ấy, đến nay, đã ngót bảy trăm năm, ngày càng tuôn chảy mạnh mẽ. Đoàn thiền giả của dòng thiền Trúc Lâm vẫn tiếp nối nhau, đi như dòng sông, từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á; dù thiền giả thuộc quốc độ nào, khi đã chọn hướng đi này là đi để được gặp lại chính mình, đi để tới chính nơi khởi bước, bởi vì Phật ở ngay trong chính tâm ta.
Những con đường núi đan kín lá trúc – nơi vị vua Việt Nam đã dừng bước, đã tu trì, đã chứng đắc, và cũng đã hóa thân – nơi ấy đã đi vào lịch sử. Đó là lịch sử của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Đạo là như thế.
Ánh sáng tới thì bóng tối bị đẩy lui.
Mưa thấm nhuần cỏ cây thì hoa đơm trái kết.
“Nhất điểm mai hoa nhụy
Tam thiên thế giới hương”
Một đóa hoa mai nở,
Ba ngàn thế giới thơm
Bằng cái nhìn thiền vị thì đây là đóa Hoa Giác Ngộ. Một vị Phật thị hiện, tam thiên đại thiên thế giới mừng vui. Một vị Đại-sư chứng đắc, trăm sông chảy về biển lớn, thành đại dương của bốn bể năm châu.
Người Phật tử khắp nơi thường dành mùa xuân để hành hương chiêm bái những nơi phụng thờ Tam Bảo, từ miếu đình đơn sơ thôn nghèo đến chùa chiền trang nghiêm nơi thị tứ, nhưng đặc biệt là lặn lội thăm viếng những di tích cổ xưa, nơi một thời nào, ánh sáng giáo pháp đã bừng lên và lưu lại.
Nén nhang thắp lên trước giờ công phu sáng nay, bỗng ngát hương rừng trúc. Lạ thay, trúc ở đâu? Hương đồng cỏ nội ở đâu mà lòng thổn thức tiếng gọi hồn thiêng sông núi?
Tĩnh tâm và thiền định, thì đó là nơi chốn tôi chưa từng được đặt chân đến, nhưng lại luôn thấp thoáng ẩn hiện trong tâm tưởng qua những hình ảnh được thấy trên các mạng lưới toàn cầu. Đó là ngọn núi Yên Tử giữa rừng trúc mênh mông, hoang vu rậm rạp gần hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh
Di tích chốn non thiêng này được ghi lại trên sử Việt, nhưng chỉ thực sự được khám phá mới đây. Đau đớn thay và cũng may mắn thay, di tích được tìm ra, do những con người đói khổ, bất chấp hiểm nguy, mạo hiểm vào rừng sâu hoang vu để đào bới những lăng mộ cũ mà họ tin là có chôn theo vàng bạc!
Bảy trăm năm, chiều dài của một lịch sử, núi rừng đã ẩn mình thầm lặng, tôn thờ linh khí của vị vua được tôn xưng là Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Khi được tìm ra, không chỉ con dân nước Việt ngậm ngùi mà di tích xưa còn làm các nhà khảo cổ khắp thế giới bàng hoàng kinh ngạc!
Từ những con đường đá cheo leo dẫn lên đỉnh núi, hành giả gặp biết bao hang động bị khai quật, bao tôn tượng bị đập phá, bao cổ thụ bị đào trốc gốc phơi sương! Nhưng ngay chính những hoang tàn đó, năng lượng nhiệm mầu vô ngôn mà cực kỳ bi tráng đã khiến bao hành giả có thể bật khóc, quỳ sụp xuống trước mảng tường rêu phong, có tấm bia còn mờ dấu khắc “Tháp Phật Hoàng”, hay thiền thất siêu đổ, được ghi nhận là “Am Ngọa Vân”, nơi nhà vua đêm ngày tọa thiền miên mật.
Lần theo những đường mòn quanh co, khi thì hàng cổ tùng thẳng tắp vươn lên trời xanh, khi thì rừng trúc rậm rạp che kín ánh mặt trời, khi thì những bãi đá thiên nhiên mà biểu hiện bao dáng vẻ an nhiên thiền vị, hành giả như đang đi ngược dòng thời gian.
Sừng sững và bề thế giữa rừng hoang là cây vải cổ thụ được ghi nhận đã bảy trăm tuổi, do chính tay vua Trần Nhân Tông vun trồng. Cây cổ thụ này, dưới thì rễ nổi, bò ngoằn ngèo như những con trăn khổng lồ, trên thì tàng lá xòe rộng như ôm cả trời xanh. Cho tới nay, cây vẫn đơm hoa kết trái và là nguồn thực phẩm chính, nuôi sống các nhà sư phát đại nguyện theo bước người xưa, lên núi tìm hang động ẩn tu trọn đạo.
Chỉ chiêm ngưỡng hình ảnh thôi, mà tưởng như mỗi bước chân được đặt trên mỗi bụi cỏ, mỗi bờ cây, mỗi viên sỏi, cũng là đang được chạm tới dấu chân vị Đại-sư bảy trăm năm trước đã từng lên xuống chốn địa linh.
Ôi, cái cảm giác kỳ diệu này có khơi dậy trong tâm phàm phu dày đặc vô minh, chút ánh sáng thoát tục nào, để con đường xuống núi vơi đi gánh nặng trần ai!
Một giải thưởng tầm vóc quốc tế, mang tên “Giải Thưởng Trần Nhân Tông” về hoà giải, để tán thán những vị đã nỗ lực đem lại hạnh phúc và tình thương cho nhân loại.
Chẳng phải tình cờ mà một hội đồng gồm thành phần những nhân sỹ trí thức quốc tế lại chọn tên một vị vua Việt Nam, cách nay đã bảy trăm năm để đặt tên cho giải thưởng. Sự kiện này đã đương nhiên xác định:
Phật Hoàng Trần Nhân Tông không chỉ còn là của con dân Việt Nam.
Dòng thiền Trúc Lâm không chỉ còn là của thiền giả Việt Nam.
Non thiêng Yên Tử không chỉ còn là địa danh của quê hương Việt Nam.
Khi Chánh Pháp thăng hoa, không còn đâu biên giới, cũng chẳng có đến, đi, sinh, diệt.
Khải tấu Thượng Hoàng, Nhà Vua Thiền Sư lỗi lạc của nước Nam, xin hãy nhìn xuống rừng già vô minh này, và chỉ cho con cháu Đường-Lên-Yên-Tử.
TN Huệ Trân
(Tào-Khê tịnh thất, một thời thiền)