Cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn bắt đầu năm Tân mão (1771) ở một ấp nhỏ thuộc tỉnh Bình định đã đưa Nguyễn Nhạc lên ngôi Thái Đức hoàng đế (1778) và Nguyễn Huệ Quang Trung hoàng đế (1788), chấm dứt các dòng họ Lê, Trịnh, Nguyên đầy uy quyền non ba thế kỷ ở nước Việt.
Sự nghiệp ấy hoàn thành, theo Hoa Bằng, vì anh em Tây Sơn là hiện thân của ý nguyện toàn dân đang bị áp bức dưới một «chế độ bất lương», vì Quang Trung là «con đẻ của thời đại»[1]. Chúng ta có thể nói rõ thêm, sự nghiệp hoàn thành là nhờ thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, người em thứ ba nhà Tây Sơn[2].
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NGUYỄN HUỆ
Quê quán ở Nghệ an[3], Nguyễn Huệ sinh năm 1753 con Hồ Phi Phúc và Nguyễn thị Đồng, ở ấp Kiên thành, huyện Tuy viễn, Qui nhơn[4] trong một gia đình khá giả[5]. Nguyễn Huệ là người thông minh linh lợi, có dị tướng ngay cả dưới ngòi bút của sử thần nhà Nguyễn:
«Nguyễn Văn Huệ là em của Nhạc, tiếng nói như chuông to, mắt lập lòe như ánh điện, là người thông minh giáo hoạt, giỏi chiến đấu, người người đều kinh sợ.»[6]
Thuở nhỏ, Nguyễn Huệ cùng các anh thụ giáo văn võ nơi giáo Hiến ở ấp Yên thái, Qui nhơn.
Vị thầy dạy dỗ anh em Tây Sơn đâu phải một ông đồ tầm thường! Những chi tiết mù mờ còn lại cho thấy ông là một nhà nho ấp ủ mối bất bình lớn[7]. Lẩn khuất trong một ấp nhỏ ở Qui nhơn rồi mở trường dạy học, có lẽ là hoạt động thích hợp nhất trong thời gian ẩn thân. Công việc này sẽ giúp giáo Hiến giải tỏa những ấm ức chất chứa, và thâm tâm giáo Hiến tránh sao không mong mỏi trong đám môn sinh ấy lại chẳng có kẻ đứng lên thể hiện chí nguyện mình đạp đổ cường quyền bạo lực. Vì thế mới có việc :
«Giáo Hiến nói riêng với Nhạc:«Lời sấm nói khởi nghĩa ở Tây (Tây sơn), thu chiến công ở Bắc. Anh là người Tây sơn hãy gắng lên».[8]
Dưới sự chú tâm dạy dỗ của bậc thầy ấy, anh em Tây Sơn có được một căn bản vững vàng ra đời. Nói thế không để phủ nhận khả năng tiềm tàng của anh em Tây Sơn, nhất là của Nguyễn Huệ, mới giải thích được sự nghiệp vượt trên thường nhân của họ, mà chỉ để tỏ thấy khả năng ấy đã được trau luyện để càng sáng tỏ. Chí của Nguyễn Huệ là chí cao viễn, được ấp ủ hun đúc ngay từ thuở ấu thời, đâu đợi đến năm 1788, khi 200.000 quân Thanh tràn sang nước Việt, Nguyễn Huệ mới «nễ lời các tướng» đăng đàn tế cáo trời đất!
Một đoạn thư gửi Nguyễn Thiếp sau này cho thấy rõ điều ấy:
«Thiên hạ loạn thế này! Nhân dân lầm than thế này! Vậy mà nhà thầy cứ nằm cao không dậy, thì đối với thiên hạ, nhân dân ra sao?»[9].
Cuộc đời của Nguyễn Huệ đã hơn một lần chứng tỏ sự đam mê cuồng nhiệt của ông. Một người con gái Bắc hà 16 tuổi đã có thể ảnh hưởng mạnh đến quyết định của Nguyễn Huệ[10].
Một người vợ khác, mất cuối tháng 3-1791 khiến ông điên cuồng làm khiếp sợ các giáo sĩ Tây phương[11]. Bản chất cuồng nhiệt bên trong ấy thể hiện nơi chốn sa trường sẽ biến thành một sức quyến rũ lôi cuốn hết thảy mọi người[12].
Ngọn lửa nhiệt thành ấy chính là điều kiện dẫn đến những công trình vĩ đại mà con người bình thường không bao giờ nghĩ đến.
NGUYỄN HUỆ, THIÊN TÀI QUÂN SỰ
Đời sâu thật dễ dàng thần thánh hóa Nguyễn Huệ. Biết bao cá nhân, biết bao tác phẩm được dựng lên ca tụng vị anh hùng ấy. Nhưng thật ra, đâu phải đợi đến đời sau, thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ đã được những người cùng thời nhìn nhận.
Các giáo sĩ Tây phương đương thời thường ví Nguyễn Huệ như «tân Attila», «Alexandre», vốn là những nhà quân sự nổi danh bách chiến bách thắng của Âu châu[13]. Hãi sợ tài dụng binh của Nguyễn Huệ, các giáo sĩ khi được tin giám mục Bá Đa Lộc chiêu mộ quân Pháp giúp Nguyễn Ánh đã không khỏi e ngại quân Pháp sẽ thất trận trước Tây Sơn, Trong bức thư đề ngày 11-6-1788, giáo sĩ La Bartelle gửi giáo sĩ Letondal đã viết:
«Tôi không rõ cuộc viễn chinh của người Pháp khi nào sẽ xảy ra. Nhưng tôi sợ rằng quân Pháp của chúng ta vì khinh thường bọn người này (Tây Sơn) và không am hiểu tường tận cách hành binh của họ và không đủ sẵn sức mạnh và có thể trở thành nạn nhân ».[14]
Người Việt cùng thời với Nguyễn Huệ như một cung nhân cũ của vua Lê từ Trường an[15] ra Thăng long nói với Thái hậu:
«Cứ xem những lời trong bài hịch, thì thầy ngài (Tôn Sĩ Nghị ) buộc cho ta nhiều lắm, mà ngài thì cứ lượn lừ trên sông, chỉ dùng thanh thế dọa nạt, không biết Nguyễn Huệ là bậc anh hùng lão thủ hăng tợn và giỏi cầm quân. Coi у ra Bắc vào Nam, thật là thần xuất quỷ nhập, không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào còn dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh của y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn sấm sét. E rằng bất nhật у sẽ lại ra, quân Tôn tổng đốc còn có cái lo bên trong, địch sao cho nổi?»[16].
TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI:
Đánh mau, đánh mạnh là điểm nổi bật về phép dụng binh của Nguyễn Huệ. Đó là lối đánh của kẻ chủ động chiến trường, lối đánh của kẻ mạnh.
Thế mạnh ấy bắt nguồn từ sự tổ chức quân đội toàn hảo bao gồm các yếu tố huấn luyện, hỏa lực và mưu lược của nhà chỉ huy.
- Tuyển binh, huấn luyện:
Về quân số, Nguyễn Huệ có biện pháp hữu hiệu tuyển số binh cần thiết và nhất là có tài huấn luyện thật mau chóng các tân binh.
Khi ra Bắc đánh quân Thanh, tới Nghệ an và Thanh hóa, Nguyễn Huệ lấy thêm lính đến «hơn một vạn»[17]. Tính từ khi đến Nghệ an ngày 26-12-1788 cho đến vùng núi Tam điệp ngày 15-1-1789, trong khoảng không đầy một tháng trời vừa tuyển binh, vừa huấn luyện tân binh, vừa chuyển quân vậy mà đạo quân ấy đại thắng đạo quân viễn chinh nhà Thanh, với quân số gấp đôi.
Phi một thiên tài quân sự thật không ai làm được «phép lạ» ấy. Hay, nói như một giáo sĩ Tây phương đương thời:
«…quân phiến loạn (Tây Sơn) làm sao so sánh được với đối phương của họ? Và không có bàn tay Thượng đế thì làm sao họ có thể đánh bại được địch thủ khi địch hơn họ về lượng cũng như về sức?»[18].
Cách tuyển binh rất gắt gao, tránh được mọi sự ẩn lậu. Tài liệu của những chứng nhân đương thời đã kiểm chứng sự kiện này. Trong một lá thư ngày 16-6-1788, giáo sĩ Doussaint gửi cho Blandin viết:
«Rất khó đi lại, kẻ nào không có thẻ sẽ bị bắt giữ và bị tù, mỗi làng bắt buộc phải dựng lên 2 hay 3 căn nhà nhận dấu (tay) của người qua lại. Với phương tiện này, họ bắt được tận hết suất đinh.»[19].
Những chứng nhân khác sẽ nói rõ thêm về chi tiết «tận hết suất đinh» này:
«Người bạn đồng sự trẻ của chúng tôi bắt buộc phải chạy bởi người ta bắt tất cả mọi người phải đi đánh nhau từ 15 tuổi trở lên. Những người già, đàn bà góa, và con gái cũng bắt đi sửa cầu, đường xá.»[20].
«Họ (quân Tây Sơn) đã phá hủy ở đây tất cả những ngôi nhà thờ đẹp nhất của chúng ta cùng tất cả những ngôi chùa và bắt các sư tăng cầm khí giới ra trận.»[21].
Để chuyển quân thật mau tạo yếu tố bất ngờ nơi chiến trường, đàn áp tâm lý địch quân, Nguyễn Huệ ra lệnh cho lính cứ 3 người 1 nhóm luân phiên võng lẫn nhau. Người lính nào, do đó, cũng có dịp nghỉ ngơi: việc chuyển quân vừa nhanh, vừa không kiệt sức, tinh thần phấn khởi «quân lính vừa đi vừa hát rất nhộn nhịp nên quên cả mệt nhọc đi!»[22].
- Hỏa lực:
Về hỏa lực, những khí giới lợi hại nhất của quân Tây Sơn là voi trận và ống phun lửa gọi là «hỏa hổ». Chính Tôn Sĩ Nghị khi kéo quân sang Việt nam có ban ra 8 điều quân luật, các điều thứ 4 và thứ 5 đã đề cập đến những trường hợp đối phó với 2 loại khí giới lợi hại ấy[23].
Về loại ống phun lửa, từ đời Lê Thái Tổ đã thấy nói đến. Mỗi vệ trang bị ống lửa hạng đại tướng quân 1 cái, hạng lớn 10 cái, hạng nhỏ 80 cái[24]. Tất nhiên đến đời Nguyễn Huệ loại khí giới này đã được cải tiến nhiều mới khiến chủ tướng quân Thanh e ngại.
Voi có nhiều ở rặng Trường sơn, anh em Tây Sơn ở vùng Qui nhơn lại thường liên lạc với đồng bào thiểu số nên quá quen thuộc với loài này. Việc thành lập đoàn tượng hình vốn rất lợi hại tất nhiên được Tây Sơn chú trọng nhiều. Để tăng thêm hiệu năng chiến đấu của voi, Nguyễn Huệ đã đặt đại bác trên mình voi hay kéo theo sau. Đoàn tượng binh do đó trở thành một binh chủng đa năng: voi trở thành phương tiện cơ động, phương tiện đột kích và phương tiện hỏa lực.
Chính đoàn tượng binh của Tây Sơn đã trở thành lực lượng xung kích, góp phần không nhỏ trong chiến dịch đại phá quân Thanh
CHIẾN THUẬT, CHIẾN LƯỢC:
Quân số, hỏa lực… thật ra chỉ là những phương tiện, phải có bộ óc vận dụng khéo léo những phương tiện tốt ấy mới đưa đến những kết quả mong muốn. Chúng ta muốn nói đến mưu lược, khả năng của vị tướng cầm đầu đoàn quân ấy.
Trong cuộc đời làm tướng, không có trận nào mà không thể hiện mưu lược của Nguyễn Huệ. Từ trận đầu tiên đi vào sử sách là trận đánh úp Tống Phước Hiệp ở Phú yên với kế «dụ địch», trận tiêu diệt 20.000 quân Xiêm la với kế «phục kích», trận đánh chiếm Phú xuân với kế «ly gián» đến trận đại phá 200.000 quân Thanh với kế «xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị», Nguyễn Huệ luôn luôn tỏ khả năng bách chiến bách thắng của mình. «Nơi nào có ta mang quân đến, nơi đó quân thù bị đánh tan tành»,[25] thật không phải là ngoa ngôn.
- Chiến thuật đánh úp: Trận Phú yên 1775.
Năm 1775, quận Việp Hoàng Ngũ Phúc được lệnh chúa Trịnh Sâm đem quân vào Quảng nam, chỗ đất Tây Sơn đang tranh giành với họ Nguyễn. Thế là Tây Sơn 2 mặt thọ địch. Bị thua quân Hoàng Ngũ Phúc ở Cẩm sa (huyện Hòa vinh, Quảng nam), Nguyễn Nhạc phải rút về Qui nhơn rồi dùng chước hòa bình, mua lòng Hoàng Ngũ Phúc xin hàng, tình nguyện làm tiền quân theo Trịnh đánh Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc ưng thuận, phong Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng trang tiết tướng quân.
Yên mặt Bắc rồi, Tây Sơn quyết định đánh chiếm Phú yên lúc ấy do tướng Nguyễn là Tống Phước Hiệp trấn giữ với quân số 20.000. Ai sẽ đảm nhận nhiệm vụ khó khăn này? Những kiện tướng như Tập Đình, Lý Tài đều đã bị loại. Tập Đình sau trận bại Cầm sa (Quảng nam) đã bỏ trốn về Trung hoa[26]. Lý Tài sau nhiều trận đại bại không còn tinh thần nữa. Chính trong tình thế ấy, Nguyễn Huệ, mới 23 tuổi, lần đầu tiên được giao trọng trách.
Để tạo yếu tố bất ngờ trên chiến trường, Tây Sơn cho người giả thương lượng hợp tác với Tống Phước Hiệp. Rồi nhân lúc Tống Phước Hiệp ơ hờ, Nguyễn Huệ đem binh đánh úp Phú yên giết tại trận cai đội Nguyễn Văn Hiền, bắt sống cai cơ Nguyễn Khoa Kiên. Tàn quân Nguyễn cùng Tống Phước Hiệp tháo chạy. Phú yên lọt vào tay Nguyễn Huệ[27].
Sau trận này, Nguyễn Huệ được Hoàng Ngũ Phúc phong làm Tây Sơn hiệu tiền phong tướng quân.
- Chiến thuật phục kích: Trận Xoài mút 1785.
Năm 1784, Nguyễn Ánh thua chạy ra đảo Thổ châu rồi sang Xiêm cầu viện. Tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương[28] đem 20.000 quân và 300 chiến thuyền sang đánh. Tướng Tây Sơn Trương Văn Đa bị thua, quân Xiêm — Nguyễn tiến đến tận Long hồ (Vĩnh long ngày nay). Nguyễn Huệ được tin, thân kéo binh vào Gia định.
Thoạt giao chiến, quân Tây Sơn cứ lui dần, lui dần… nhử quân Xiêm — Nguyễn đến Xoài mút (Sầm giang, Định tường) nơi Nguyễn Huệ đã cho một bọn binh lính lực lưỡng mai phục. Rồi phục binh Việt đổ ra đánh. Quân Xiêm — Nguyễn đang khốn đốn vì bị phục kích lại bị 2 mặt quân thủy lục do Nguyễn Huệ chỉ huy ép lại, đại bại. Tàn quân Xiêm trốn chạy về nước (18-1-1785). Nguyễn Ánh chạy về Hà tiên, trú ở Cồn khơi rồi ra đảo Thổ châu. Tháng 3 âm lịch 1785 quân Tây Sơn tìm tới Thổ châu, Nguyễn Ánh lại chạy ra đảo Cổ cốt rồi sang Xiêm.
Người Xiêm la, sau trận thua năm Giáp thìn (1785), ngoài miệng tuy nói khác, nhưng trong lòng thì sợ Tây Sơn «như sợ cọp »[29].
- Chiến thuật ly gián: Trận Phú xuân 1786.
Năm 1786, thừa dịp đại thắng quân Xiêm ở Gia định và theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh, Tây Sơn tiến quân đánh Thuận hóa, bấy giờ do Phạm Ngô Cầu (quận Tạo, quan Đại) trấn thủ với phó tướng là Hoàng Đình Thể.
Hai vị quan nhà Nguyễn này không ưa nhau. Phạm Ngô Cầu không ưa Hoàng Đình Thể vì thế lực quan phó tướng ngày càng mạnh. Hoàng Đình Thể, ngược lại, không phục Phạm Ngô Cầu vì quan Đại quá ư tham nhũng, nhân dân oán ghét[30].
Lợi dụng sự chia rẽ ấy, Nguyễn Huệ mật sai Nguyễn Hữu Chỉnh viết thư kín gửi cho Hoàng Đình Thể nhưng cố tình để lọt vào tay Phạm Ngô Cầu. Do đó khi Hoàng Đình Thể ra chống cự với quân Tây Sơn cùng hai con thì bị Phạm Ngô Cầu đóng cửa thành, không tiếp tế.
Hoàng Đình Thể tức giận, định quay vào thành: giết Phạm Ngô Cầu, thì trên thành, Phạm Ngô Cầu đã kéo cờ trắng xin hàng Tây Sơn[31].
Hạ xong thành Phú xuân, Nguyễn Huệ cho quân tiến chiếm các đồn Cát doanh (Quảng trị), Đồng hới (Quảng bình). Các tướng Trịnh giữ đồn đều bỏ chạy[32].
Thế là chỉ trong mấy ngày, từ 15-6-1786 đến 22-6-1786 đất Thuận hóa từ Phú xuân cho đến sông Gianh đều lọt vào tay Nguyễn Huệ.
- Chiến thuật tốc chiến: Trận Đống đa 1789.
Tuy nhiên chiến dịch tiến đánh quân Thanh mới phổ hiện điển hình nhất khả năng quân sự của Nguyễn Huệ.
Nguyên năm 1788, Lê Chiêu Thống cử Lê Duy Đản, Trần Danh Án sang Trung hoa cầu cứu tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị[33]. Mặt khác, Thái hậu nhà Lê cùng nhóm Lê Quýnh sau khi chạy lên Cao bằng nương dựa đốc trấn Nguyễn Công Túc cũng sang Trung hoa cứu viện. Tôn Sĩ Nghị nhân cơ hội muốn chiếm nước ta, dâng biểu lên Cao Tông nhà Thanh là Càn Long xin khởi binh sang đánh Việt nam. Càn Long ưng chuẩn hạ lệnh lấy lính 4 tỉnh Quảng đông, Quảng tây, Vân nam và Quí châu tất cả 200.000 người, chia làm 3 đạo sang đánh nước Việt.
Đạo thứ nhất do chính Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy theo đường Nam quan vào Lạng sơn. Đạo thứ hai do tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống dẫn binh Quảng tây theo ngả Cao bằng vào. Đạo thứ ba do đề đốc Ô Đại Kinh dẫn binh Vân nam, Quí Châu theo ngả Tuyên quang, thung lũng sông Nhị vào Lào kay. Ngày 25-11-1788 tất cả các đạo quân đều cùng xuất phát.
Khi tiến quân, Tôn Sĩ Nghị đã siết chặt kỷ luật quân Thanh trong 8 điều quân luật, tổ chức yểm trợ cực chu đáo: mỗi lính có một phu phục dịch. Đề phòng loại súng phun lửa của Tây Sơn, Tôn Sĩ Nghị cho làm sẵn những tấm chắn bằng da trâu. Lo lắng những cuộc phục kích vốn là chiến thuật quen thuộc của phe yếu, Tôn Sĩ Nghị cho phát quang đường đi, xét đất đề phòng hầm bẫy[34].
Sửa soạn kỹ càng như vậy tưởng chừng sự chiến thắng của đại quân 200.000 người là điều chắc chắn.
Sự thật trái lại.
Theo lời bàn của Ngô Thì Nhậm[35], Ngô Văn Sở lui binh từ Thăng long về Tam điệp (17-12-1788) khiến quân Thanh liên tiếp chiến thắng, «tướng sinh kiêu, binh sinh lộng».
Sự khinh thường Tây Sơn của quan quân nhà Thanh khiến các giáo sĩ Tây phương đương thời cũng phải lo sợ thay cho họ:
«Thái độ hay tinh khinh địch của quân Trung hoa đầy ngạo khí vì đã thành công chống một kẻ địch lợi hại làm cho những người biết suy nghĩ e sợ và tiên đoán những biến chuyển về sau.»[36]
Trong khi ấy, ở Tam điệp Ngô Văn Sở cử Nguyễn Văn Tuyết cấp báo với Phú xuân, Nguyễn Huệ được tin, lên ngôi hoàng đế (22-12-1788) thân cầm đại quân rầm rộ ra Bắc, đến Nghệ an mộ thêm quân cả thảy được 100.000 lính rồi làm lễ xuất phát.
Cuộc chuyển quân cực kỳ thần tốc[37]. Ngày 15-1-1789 đại quân đến núi Tam điệp. Quang Trung hoàng đế cho quân sĩ ăn tết trước, khẳng khái tuyên bố: «chỉ nội mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch được giặc Thanh!»[38].
Rời Nghệ an, một mặt thúc quân tiến gấp, một mặt dụng kế với Tôn Sĩ Nghị, Quang Trung cử Trần Danh Bính cầm đầu một phái bộ tỏ ý «cung thuận» khiến Tôn Sĩ Nghị càng kiêu căng, không phòng bị[39].
Ngày 30 tết (25-1-1789), quân Tây sơn qua sông Gián thủy (Ninh bình), đánh tan quân nhà Lê do Hoàng Phùng Nghĩa chỉ huy, truy kích bắt được tất cả bọn do thám Trung hoa chạy được đến Phú xuyên (Hà đông). Tin quân không bị tiết lộ, do đó, ngày mùng 3 tết quân Thanh đóng ở Hà hồi đang đêm thấy vang dội tiếng loa kêu, «quân sĩ ứng tiếng luân phiên dạ rân gần mấy muôn người»[40] khiến quân Thanh càng thêm hãi sợ, phải xin hàng.
Sáng sớm mùng 5 tết (30-1-1789) Quang Trung cho đốt hết quân lương, tự quấn khăn vàng quanh cổ, những dấu hiệu của sự quyết chiến, cưỡi voi thúc quân tiến đánh đồn Ngọc hồi.
Quang Trung cho đoàn tượng binh hơn 100 voi đi tiên phong. Binh chủng này có dịp chứng tỏ khả năng công phá kinh khiếp cho dù Tôn Sĩ Nghị đã tiên liệu cách đề phòng:
«Mờ sáng hôm ấy, quân Thanh lùi đội tinh ký tiến lên. Chợt trông thấy voi, ngựa bên quân Thanh sợ cuống, hí lên, rống lên những tiếng kinh hoàng rồi chạy tán loạn! Thấy thế quân Nam lại thúc voi xông vào, làm cho bên địch xô bồ hỗn độn loạn cả hàng ngũ».[41]
Quân Tây Sơn lại dùng ván gỗ tẩm rơm ướt theo hàng chữ nhất công đồn. Chính Quang Trung thúc voi đốc quân cố đánh khiến quân sĩ càng nức lòng. «Theo lời đồn, ông đeo 2 cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính Trung hoa làm rất nhiều người chết về tay ông. Ông luân mồm hô xưng phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu»[42]. Kết quả đồn bị hạ, quân Tây Sơn thừa thắng, phá luôn các đồn Văn điển (Hà đông), An quyết (ngoại ô Hà nội), trong khi một đạo quân khác cũng chiếm được đồn Khương thượng[43].
Chiều ngày 5 tết Quang Trung kéo quân vào Thăng long, đúng như lời hứa trước ba quân ở Tam điệp.
Tôn Sĩ Nghị đóng quân ở bãi cát sông Nhị nghe tin báo vội chạy về phía Bắc, chặt đứt cầu phao bắc qua sông để chặn quân Tây Sơn:
«Tôn Sĩ Nghị giành qua sông Phú lương, rồi lập tức đẵn cầu phao để dứt với phía sau mình. Bởi vậy, quân ở bờ Nam,đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long trở xuống quan, binh, phu dịch hơn vạn người đầu bị chết đuối».[44]
Đạo quân Vân nam Quí châu lúc bấy giờ tiến xuống Sơn tây, nghe tin phải vội rút về.
Quang Trung cho binh truy kích tàn quân Tôn Sĩ Nghị sang tận đất Trung hoa. «Người Tàu (nhà Thanh) chấn động dữ dội từ của ải trở lên phía Bắc già trẻ dìu dắt nhau chạy trốn. Hằng mấy trăm dặm tuyệt nhiên không có người và khói bếp»[45].
Thế là không đầy 10 ngày, Quang Trung đã toàn thắng đoàn quân viễn chinh Trung hoa, gây tử thương hơn 10.000 quân và các tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, Sầm Nghi Đống (tự tử)… cùng, không kể số võ khí cá nhân, 2.000 đến 3.000 cỗ đại bác[46].
«Đó, kết quả của cuộc chinh phạt ấy là như vậy, nó đem đến đau đớn và nhục nhã cho quân Trung hoa và lợi lộc cùng vẻ vang cho quân Tây Sơn»[47].
KẾT LUẬN
Diệt xâm lăng, đánh bại quân Trung hoa, Xiêm la và hạ 3 dòng họ Lê, Trịnh, Nguyễn là những thành quả vô cùng rực rỡ của Nguyễn Huệ. Chúng chứng tỏ ông là một thiên tài quân sự không hề chiến bại.
Sự nghiệp quân sự của Nguyễn Huệ sẽ còn lẫy lừng nữa, khi ông sửa soạn công cuộc tấn công Trung hoa. Tiếc thay cái chết đã đến với Nguyễn Huệ quá sớm, vào ngày 16-9-1792 sau một cơn bạo bệnh, khi ông mới 40 tuổi[48].
Thật ra, thiên tài của Nguyễn Huệ không chỉ khu hạn trong phạm vi quân sự.
Về kinh tế, Quang Trung hoàng đế cho các thương nhân Tây phương vào buôn bán dễ dàng, mở chợ, lập nhà hàng ở Bình thủy quan (Cao bằng), Du thôn ải (Lạng sơn), Nam ninh (Quảng tây)… tạo điều kiện cho công thương nghiệp phát triển, Quang Trung còn buộc chức dịch các địa phương tìm cách đưa những người tha phương về quê quán chăm lo nông nghiệp, cấp phát cho họ những ruộng đất bỏ hoang để kích thích việc sản xuất.
Về văn hóa giáo dục, nội một việc yêu tiếng mẹ đẻ, trọng dụng quốc văn, tiến tới việc xây dựng một nền học thuật Việt nam cũng đủ nêu gương sáng cho hậu thế tiếp nối.
Về tôn giáo, Quang Trung tôn sùng đạo Khổng, đạo Phật, lại có ý chấn chỉnh Phật giáo bằng cách bắt những nhà sư không xứng đáng phải hoàn tục. Thiên chúa giáo thời này cũng phát triển. «Từ khi nhà Tây Sơn lên làm chủ tôn giáo được tiến bộ»[49].
Về ngoại giao, Quang Trung đã liên tiếp đạt những thắng lợi ngoại giao với Trung hoa, điển hình là việc Quang Trung đã phá bỏ được lệ cống người vàng, lệ bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ.
Đối nội cũng như đối ngoại, về kinh tế cũng như văn hóa, trong mọi hoàn cảnh, tất cả đều chứng tỏ Nguyễn Huệ là nhà lãnh đạo chân tài.
Cái chết của Nguyễn Huệ, do đó, trước hết là một thua thiệt lớn cho quốc gia Việt nam hồi hậu bán thế kỷ XVIII…
TRẦN ANH TUẤN
- Chữ viết tắt:
– bđd: bài đã dẫn
– nxb nhà xuất bản
– sđd: sách đã dẫn
– xb: xuất bản
_______________
[1] Hoa Bằng, Quang Trung anh hùng dân tộc 1788-1792, tái bản lần 2, Saigon, Bốn Phương xb., 1958, tr.30.
[2] Có vài tác giả, như Louis Eugène Louvet, cho Huệ là anh Lữ. Tham khảo : Louis Eugène Louvet, Mgr. d’Adran. Missionnairẹ et Pa-triote, Paris, Librairie Delhomme et Briguet, 1900, tr. 53.
Mới đây, ông Nguyễn Phương đã tham khảo ý kiến của nhiều tác giả cho thấy thứ tự Nhạc, Lữ, Huệ là hợp lý. Tham khảo: Nguyễn Phương, Việt nam thời bành trướng: Tây sơn, Saigon, Khai Trí xb, 1968, chú thích 1, tt. 161-162.
[3] Tổ phụ anh em Tây sơn là Hồ Phi Khang ở huyện Hưng nguyên, tỉnh Nghệ an, bị quân chúa Nguyễn Phúc Tần do Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật bắt khoảng 1653 -1657 giải về Nam, cho về ở ấp Tây sơn khai khẩn đất hoang. Đến thời Nhạc, Huệ, đổi họ là Nguyễn. Việc đổi họ này theo Sở Cuồng (Tây Sơn Ngoại sử) là để phù hợp với câu sám «Phù Nguyễn Trì Thống», theo Văn Tân (Cách mạng Tây Sơn) là để phù hợp với họ đang cầm quyền, hoạt động sẽ dễ dàng.
[4] Nay là thôn An khê (ở vùng Hòn một, gần đèo An khê, trên quốc lộ 19 Qui nhơn — Pleiku) thuộc huyện Bình khê, tỉnh Bình định.
Năm 1799 khi chiếm được Qui nhơn, Nguyễn Ánh đổi thành Bình định.
[5] Nguyễn Nhạc làm chủ trại Tây sơn, sau biện lại tuần Vân đồn. Văn Tân (sđd), dẫn Nghệ an chí của Bùi Tồn Trai cho biết nhờ giàu có Nguyễn Nhạc mới được làm chủ trại.
[6] Đại nam Chính biên Liệt truyện, Nhà Tây Sơn, Tạ Quang Phát dịch và chú giải, Saigon, Phú Quốc Vụ khanh Đặc trách Văn hóa, 1970, tr. 73.
[7] Ngay đến họ của ông ta hiện cũng không được biết rõ. Văn Tân (sđd., tr. 35) cho biết theo Sở Cuồng (Tây Sơn Ngoại sử) thì giáo Hiến họ Trương và là con của Trương Văn Hạnh, trong khi Đại nam Chính biên Liệt truyện (sđd., tr. 9) cho biết hai người là bạn của nhau.
Giáo Hiến ở nhà Trương Văn Hạnh bấy giờ làm quan dưới triều Võ Vương (1738-1765). Khi Võ Vương mất, di chiếu lập người con lớn tuổi nhất là Luân lên nối nghiệp. Nhưng Trương Phúc Loan chuyên quyền, bắt giam Luân, đưa người con thứ 16 mới 11 tuổi tên Thuần lên ngôi. Sợ việc bại lộ, Trương Phúc Loan tìm giết những người biết chuyện, Trương Văn Hạnh ở trong số này.
[8] Đại nam Chính biên Liệt truyện, sđd., tr. 9
[9] Trích lại trong: Nguiễn Ngu Í, Hồ Thơm Nguyễn Huệ Quang Trung 1752-1792 hay Giấc Mộng Lớn Chưa Thành, Saigon, về Nguồn xb., 1967, tr. 8.
[10] Năm 1786 khi Lê Hiền Tông mất, người nối nghiệp là tự tôn Lê Duy Kỳ. Ngọc Hân công chúa vốn không ưa tự tôn nên nói với Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ bèn ngỏ ý với triều thân nhà Lê muốn hoãn việc hành lễ đăng quang. Cả triều đình e ngại. Các vị trong tôn thất nhà Lê đổ tội cho Ngọc Hân công chúa làm lỡ việc lớn. Công chúa sợ; xin Nguyễn Huệ cho lập tự tôn. Nguyễn Huệ bằng lòng. Lễ đăng quang bấy giờ mới cử hành.
[11] Thư giáo sĩ Girard gửi giáo sĩ Boiret ngày 25-11-1792 : «Các quan đã khuyên Tiếm vương cho mời một người Âu vào cung Sau lại yêu tôi (giáo sĩ Girard) kê thuốc cho phu nhân Tiếm vương, nhưng bà ta từ trần… Tiếm vương gần như thành điên khùng, ông muốn hành quyết 2 thầy lang đã săn sóc vợ ông. May thay họ chỉ phải mang cùm thôi…»
Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương,» Sử Địa, số 13 (tháng 1 đến 3-69), tr. 151.
[12] Tạ Chí Đại Trường, «Góp thêm về Phổ hệ Tây Sơn và chân dung Anh Em họ,» Sử Địa, số 9-10 (1968), tr. 129.
[13] Trong nhật ký tường trình của Hội truyền giáo Bắc kỳ gửi Hội Truyền giáo Trung ương Ba lê từ tháng 10-1788, Nguyễn Huệ được gọi là «tân Atlila»: Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ,» Sử Địa, số 9-10 (1968), tr. 196.
Trong bức thư đề tháng 6-1789 gửi Blandin, giáo sĩ Le Roy ví Nguyễn Huệ như «Alexandre». Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương,» Sử Địa, số 13 (tháng 1 đến 3-1969), tr. 145.
[14] Trích lại trong: Nguyễn Nhã, «Tài dùng binh của Nguyễn Huệ», Sử Địa, số 13 (tháng 1 đến 3-1969), tr. 206.
[15] Phủ Trường an thuộc trấn Sơn nam, nay thuộc tỉnh Ninh bình.
[16] Ngô Thời Chí, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Tất Tố dịch, Saigon, Tự Do xb., 1958, tr. 252.
[17] Ngô Thời Chí, sđd., tr. 254.
Đại nam Chính biên Liệt truyện, sđd., tr. 133 chỉ cho biết sau khi lấy thêm binh ở Nghệ an, Thanh hóa, quân số tổng cộng «hơn mười vạn».
[18] Thư ngày 12-7-1789 của giáo sĩ Sérard. Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà Truyền giáo Tây phương,» Sử Địa, số 13 (tháng 1 đến 3-1969), tr. 166.
[19] Trích lại trong: Nguyễn Nhã, bđd., tr. 217.
[20] Thư ngày 13-5-1787 của giáo sĩ La Bartelle gửi Blandin, trích lại trong: Nguyễn Nhã, bđđ., tr. 217.
[21] Thư ngày 25-6-1786 của giáo sĩ La Bartelle gửi Blandin, trích lại trong: Nguyễn Nhã, bđđ., tr. 217.
[22] Văn Tân, sđd., tr. 119. Đây là theo Lê triều Dã sử. Mới đây, Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng nghi ngờ sự việc quân lính cáng nhau là do người sau viết sách tưởng tượng để giải thích tốc độ hành quân mau lẹ của quân Tây Sơn. Việc cáng nhau, theo các tác giả này, «không thể đi nhanh được bằng đi bộ rảo cẳng, càng không thể đi nhanh đều đặn trong thời gian nhiều ngày liền». Tham khảo: Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng, Tìm hiểu Thiên tài Quân sự của Nguyễn Huệ, Hànội, nxb. Quân đội Nhân dân, 1966, chủ thích 2, tr. 227.
[23] Điều thứ 4: Người Nam, khi ra trận, hay dùng voi. Voi không phải là món người Thanh quen thạo: hễ gặp voi, thường cứ chạy đi trước… hễ thấy voi ra trận nếu xa thì bắn bằng súng, nếu gần thì trị bằng đao và cung, khiến voi bị thương, đau phải chạy quay lại, rồi tự giày đạp lẫn nhau…
Điều thứ 5: Quân Nam toàn dùng cái ống phun thuốc súng làm lợi khí, gọi là «hỏa hổ». Khi hai quân giáp nhau, quân Nam tất phải trước dùng thứ đồ ấy để đốt cháy quần áo người ta khiến cho phải lui. Hiện ta (quân Thanh) đã chế sẵn được vài trăm cái mộc bằng da trâu sống. Nếu thấy quân Nam bắn hỏa hổ thì quân ta một tay cầm mộc để đở lửa, một tay cầm dao để chém bừa.
Tham khảo: Hoa Bằng, sđđ., tt. 160-161.
[24] Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương Loại chí, Tập IV, Hànội, nhà xuất bản Sử Học, 1962, tr. 25.
[25] Hịch của Quang Trung hoàng đế ngày 10-7 âm lịch (1792) gửi quân dân 2 tỉnh Quảng ngãi, Qui nhơn.
Toàn bài hịch đã được dịch đăng trong tạp chí Sử Địa. Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Triều đại Quang Trung dưới mắt các Nhà Truyền giáo Tây phương, » Sử Địa, số 13 (Tháng 1 đến 3-1969), tt. 175-177.
[26] Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng, sđđ., tr. 38.
[27] Đại nam Chính biên Liệt truyện. Nhà Tây Sơn, sđd, tr. 49-51.
[28] Chiêu hay chiếu là chức tước, không phải tên họ, có thể gọi là chao, chậu như tiếng Lào, tiếng Thái. (Chú của Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng, sđd., tr. 89).
[29] Hoa Bằng, sđd., tr. 54.
[30] Nguyễn Phương, sđđ., tr. 144.
[31] Hoàng Đình Thể tiếp tục chiến đấu rồi tự sát, hai con tử trận. Phần Phạm Ngô cầu trói mình tự nộp cho Nguyễn Huệ, bị giải về Qui nhơn và bị giết ở đó.
[32] Văn Tân, sđd., tr. 65.
[33] Tôn Sĩ Nghị là một tướng tài của nhà Thanh, từng viễn chinh thắng lợi ở Tây tạng năm 1751. Khi phụng mệnh Càn Long khởi binh, Tôn Sĩ Nghị đã hiến kế liên kết với Xiêm la cùng ép đánh nước Việt nhưng Càn Long không thuận. «Có lẽ vì nhà vua sợ quân Xiêm bất lực chăng?». Tham khảo; Văn Tân, sđd., tr. 104.
[34] Tạ Chí Đại Trường, «Đống Đa mâu thuẫn văn hóa vượt biên giới,» Sử Địa, số 13 (tháng 1 đến 3-1969), tr. 71.
[35] Đại Nam Chính biên Liệt truyện. Nhà Tây Sơn, sđd., tr. 127.
[36] Nhật ký của Giáo hội Bắc kỳ tháng 8-1787 đến 10-1788. Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Vài Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ» Sử Địa, số 9-10 (1968), tr. 217.
[37] Văn Tân đã tính quân Tây Sơn một ngày đi trên 15km, so với thời Đại chiến thứ nhất 1914-1918, quân Anh, Pháp chỉ di chuyển khoảng llkm là cao, bình thường 4km. Tham khảo: Văn Tân, sđd., tr. 141.
[38] Hoa Bằng, sđd., tr. 183.
[39] Phản ứng của Tôn Sĩ Nghị là xé thư ném xuống đất, giết Trần Danh Bình, bắt giam tất cả sứ giả Tây Sơn.
[40] Đại nam Chính biên Liệt truyện. Nhà Tây Sơn, sđd., tr. 139
[41] Hoa Bằng, sđd., tr. 192
[42] Nhật ký của Giáo hội Bắc kỳ tháng 10-1788 đến 7-1789. Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Vài Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ,» Sử Địa, số 9-10 (1968), tr. 224.
[43] Trận Khương Thượng tức trận Đống Đa. Bị Đô Đốc Long vây hãm, tướng giữ đồn là Sầm Nghi Đống phải tự ải, rất nhiều thân binh cũng bị giết quanh vùng, để lại cho hậu thế chứng tích của mùa xuân chiến thắng Kỷ dậu.
[44] Tài liệu trong Càn Long Chinh vũ An nam kí của Ngụy Nguyên viết năm 1842, Hoàng Xuân Hãn dịch và chú giải. Tham khảo: Hoàng Xuân Hãn, «Việt Thanh Chiến sử, theo Ngụy Nguyên, một Sử gia Trung Quốc đời Thanh,» Sử Địa, số 9-10 (1968), tr.253.
[45] Đại nam Chính biên Liệt truyện. Nhà Tây Sơn, sđd., tr.143.
[46] Nhật ký của Giáo hội Bắc kỳ tháng 10-1788 đến 7-1789. Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ» Sử Địa, số 9-10 (1968). tt.224-225.
[47] Nhật lý của Giáo hội Bắc kỳ tháng 10-1788 đến 7-1789. Tham khảo: Đặng Phương Nghi, «Vài Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ» Sử Địa, số 9-10 (1968), tr. 226.
[48] Về ngày tháng Quang Trung mất, theo chính sử nhà Nguyễn là 29 tháng 9 Nhâm tí tức 13-12-1792 (Tham khảo: Đại nam Chính biên Liệt truyện. Nhà Tây Sơn, sdd, tr.173). Năm 1945 Hoàng Xuân Hãn đã dẫn chứng cho biết đích ngày chết của Quang Trung là 29 tháng 7 Nhâm tí tức 16-9-1792.
[49] Thư ngày 18-7-1793 của giáo sĩ Le Roy gửi Blandin dẫn bởi Hoa Băng, sdd., tr. 292.