Sự thật chính là cái bảo đảm tốt nhất và là nền tảng thực sự của tự do và dân chủ.
Washington, Quận Columbia, Tháng 4, 1993
Từ hàng ngàn năm qua, người ta đã bị làm cho tin rằng chỉ có một tổ chức độc tài áp dụng những phương pháp kỷ luật cứng nhắc mới có thể điều khiển được xã hội loài người. Tuy nhiên, vì người ta có mong muốn một cách tự nhiên là được tự do, cho nên, các thế lực tự do và áp bức liên tục mâu thuẫn với nhau trong suốt chiều dài lịch sử. Giờ đây thì rõ ràng ai sẽ là kẻ chiến thắng. Sự trỗi dậy của các phong trào quyền lực của các dân tộc, lật đổ chế độ độc tài của cánh tả và hữu, đã cho thấy chắc chắn rằng loài người không thể dung thứ và cũng không hoạt động đúng đắn dưới chế độ chuyên chế.
Mặc dù không có một xã hội Phật giáo nào của chúng ta phát triển được một chính thể giống như nền dân chủ trong hệ thống chính quyền của mình, cá nhân tôi rất ngưỡng mộ chế độ dân chủ thế gian. Khi Tây Tạng vẫn còn tự do, chúng tôi đã phát triển sự biệt lập tự nhiên của chúng tôi, nhầm tưởng rằng chúng tôi có thể kéo dài hòa bình và an ninh của chúng tôi theo cách đó. Hậu quả là chúng tôi ít chú ý đến những thay đổi đang diễn ra ở thế giới bên ngoài. Chúng tôi hầu như không nhận ra là Ấn Độ, một trong những nước láng giềng gần gũi nhất của chúng tôi, đã giành được độc lập một cách ôn hòa, trở thành nền dân chủ lớn nhất thế giới. Sau đó, chúng tôi đã học được, theo con đường gian nan, rằng trên trường quốc tế, cũng như trong nhà, tự do là điều gì đó để chia sẻ và thọ hưởng cùng với người khác, chứ không giữ cho riêng mình.
Mặc dù những người Tây Tạng sống bên ngoài đất nước đã bị giáng xuống thành người tỵ nạn, song, chúng tôi có quyền tự do thực hiện các quyền của mình. Anh chị em ở Tây Tạng, mặc dù ở trong nước của họ thậm chí cũng không có quyền sống. Do đó, những người sống lưu vong như chúng tôi có trách nhiệm suy ngẫm và lên kế hoạch cho tương lai của Tây Tạng. Qua nhiều năm, chúng tôi đã cố gắng bằng nhiều cách để đạt được một mô hình dân chủ thật sự. Sự quen thuộc của tất cả những người Tây Tạng lưu vong với thuật ngữ ‘dân chủ’ đã cho thấy điều này.
Từ lâu, tôi đã mong đợi thời điểm mà chúng tôi có thể tạo ra một hệ thống chính trị phù hợp với truyền thống của chúng tôi cũng như nhu cầu của thế giới hiện đại. Một nền dân chủ bất bạo động và hoà bình từ gốc rễ của nó. Gần đây chúng tôi đã bắt tay vào những thay đổi sẽ tiếp tục dân chủ hoá và củng cố chính quyền lưu vong của mình. Vì nhiều lý do, tôi đã quyết định rằng tôi sẽ không phải là người đứng đầu, hoặc đóng vai trò nào trong chính phủ khi Tây Tạng trở nên độc lập. Người đứng đầu tương lai của Chính phủ Tây Tạng phải là người được dân chúng cùng nhau bầu lên. Có rất nhiều thuận lợi để tiến tới bước như vậy và nó sẽ cho phép chúng tôi trở thành một nền dân chủ chân chính và hoàn chỉnh. Tôi hy vọng rằng những động thái này sẽ cho phép người dân Tây Tạng có một tiếng nói rõ ràng trong việc xác định tương lai của đất nước họ.
Sự dân chủ hoá của chúng tôi đã lan tới người Tây Tạng ở khắp nơi trên thế giới. Tôi tin rằng các thế hệ tương lai sẽ xem xét những thay đổi này trong những thành tựu quan trọng nhất của trải nghiệm lưu vong của chúng tôi. Cũng như việc đưa đạo Phật vào Tây Tạng đã củng cố đất nước chúng tôi, tôi tin tưởng rằng sự dân chủ hóa xã hội của chúng tôi sẽ làm tăng thêm sức sống cho người dân Tây Tạng và cho phép các cơ quan làm ra quyết định của chúng tôi phản ánh những nhu cầu và khát vọng chân thành của họ.
Ý tưởng rằng mọi người có thể sống với nhau tự do với tư cách là cá nhân, bình đẳng trên nguyên tắc và do đó có trách nhiệm với nhau, về cơ bản thuận với thiên hướng của Phật giáo. Là Phật tử, người Tây Tạng chúng tôi tôn trọng cuộc sống của con người như là báu vật và coi triết lý và giáo huấn của Đức Phật như là con đường dẫn tới loại tự do cao nhất. Một cái đích để cho cả nam và nữ đều đạt được.
Đức Phật thấy rằng mục đích chính của cuộc sống là hạnh phúc. Ngài cũng chứng minh rằng trong khi vô minh ràng buộc chúng sinh trong sự vô vọng và đau khổ tột cùng, thì trí tuệ lại giải thoát họ ra khỏi điều đó. Dân chủ hiện đại dựa trên nguyên tắc rằng tất cả con người về cơ bản là bình đẳng, rằng mỗi người chúng ta có quyền bình đẳng được sống, tự do và hạnh phúc. Phật giáo cũng thừa nhận rằng con người có quyền được tôn trọng nhân phẩm, rằng tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại đều có quyền tự do như nhau và không thể chuyển nhượng, không chỉ về mặt tự do chính trị mà còn về cơ bản là không sợ hãi và túng thiếu. Bất kể giàu hay nghèo, có học thức hay không, thuộc quốc gia này hay địa phận khác, theo tôn giáo này hay đạo giáo khác, tôn trọng ý thức hệ này hay ý thức hệ kia, thì mỗi người chúng ta cũng chỉ là một con người giống như mọi người khác. Chúng ta không chỉ mong muốn hạnh phúc và tìm cách tránh khổ đau, mà mỗi người chúng ta đều có quyền bình đẳng để theo đuổi những mục tiêu này.
Tổ chức mà Đức Phật thành lập là Tăng già hay cộng đồng Tu sĩ, hoạt động trên những đường lối hoàn toàn dân chủ. Trong tình huynh đệ này, các cá nhân đều bình đẳng, bất kể đẳng cấp xã hội hay nguồn gốc giai cấp. Sự khác biệt duy nhất về thân phận tùy thuộc vào thâm niên của việc thọ giáo. Tự do cá nhân, được minh họa bằng sự giải thoát hoặc giác ngộ, là trọng tâm của toàn thể cộng đồng, đạt được bằng cách tu tâm trong thiền định. Tuy nhiên, các mối quan hệ hàng ngày được thực hiện trên cơ sở của sự độ lượng, ân cần, và dịu dàng đối với người khác. Bằng cách sống một cuộc sống vô gia cư, các Tăng sĩ tự giải phóng bản thân khỏi mối bận tâm về tài sản. Tuy nhiên, họ đã không sống hoàn toàn cô lập. Phong tục hành khất của bố thí chỉ dùng để tăng cường nhận thức của họ về sự lệ thuộc vào người khác. Trong cộng đồng, các quyết định đã được đưa ra bằng cách bỏ phiếu và sự bất hòa được giải quyết theo sự đồng thuận. Như vậy, Tăng già là một mô hình bình đẳng xã hội, chia sẻ của cải và tiến trình dân chủ.
Phật giáo về cơ bản là một học thuyết thực tiễn. Khi giải quyết vấn đề căn bản về khổ đau của con người, đạo Phật không nhấn mạnh vào một giải pháp duy nhất. Nhận thức rằng con người rất khác nhau về nhu cầu, khuynh hướng và khả năng, họ thừa nhận rằng có nhiều con đường hòa bình và hạnh phúc. Là một cộng đồng tâm linh, sự đoàn kết của họ phát sinh từ một ý thức thống nhất về tình huynh đệ. Đạo Phật đã kéo dài hơn hai ngàn năm trăm năm mà không có bất kỳ quyền lực tập trung rõ rệt nào, phát triển mạnh dưới nhiều hình thức, trong khi liên tục đổi mới, thông qua tu hành, lấy lời dạy của Đức Phật làm gốc. Cách tiếp cận đa nguyên này, trong đó cá nhân chịu trách nhiệm, rất phù hợp với quan điểm dân chủ.
Chúng ta đều mong muốn tự do, nhưng sự khác biệt người này với người kia là trí thông minh. Là con người tự do chúng ta có thể sử dụng trí thông minh độc nhất của mình để cố hiểu bản thân và thế giới của chúng ta. Đức Phật đã nói rõ rằng, đệ tử của Ngài không được hiểu lời nói của Ngài một cách hời hợt mà phải kiểm tra và thử nghiệm nó như là một thợ kim hoàn kiểm tra chất lượng vàng. Nhưng nếu chúng ta không được quyền phân biệt và sáng tạo, chúng ta sẽ bị mất đi một trong những đặc tính cơ bản của con người. Do đó, sự tự do về chính trị, xã hội và văn hoá, mà nền dân chủ đòi hỏi, có giá trị và tầm quan trọng to lớn.
Không có hệ thống chính quyền nào là hoàn hảo, nhưng chế độ dân chủ là gần nhất với nhân tính thiết yếu của chúng ta. Đây cũng là nền tảng vững chắc duy nhất mà trên đó có thể xây dựng một cấu trúc chính trị công bằng và tự do toàn cầu. Vì vậy, chúng tôi mong muốn rằng những ai trong chúng ta đã được hưởng chế độ dân chủ thì nên tích cực hỗ trợ cho mọi người cũng có quyền được hưởng như vậy.
Mặc dù chủ nghĩa cộng sản đã tán thưởng nhiều lý tưởng cao quý, bao gồm cả lòng vị tha; nhưng những nỗ lực của nhà cầm quyền ưu tú của họ để chuyên quyền đã thực sự gây tai họa. Các chính phủ này đã áp dụng những biện pháp dữ dội để kiểm soát xã hội của mình và để thúc ép công dân làm việc vì lợi ích chung. Đường lối cứng nhắc có thể cần thiết lúc đầu để vượt qua chế độ áp bức trước đó. Tuy nhiên, một khi đã đạt được mục tiêu đó, sự cứng cỏi như vậy góp phần rất hạn chế vào việc xây dựng một xã hội thực sự hợp tác. Chủ nghĩa cộng sản đã thất bại hoàn toàn bởi vì nó dựa vào sức mạnh để truyền bá niềm tin của nó. Cuối cùng, bản chất con người không thể chịu đựng được sự đau khổ do nó tạo ra.
Sức mạnh tàn bạo, dù được áp đặt mạnh như thế nào, không bao giờ có thể khuất phục được mong muốn cơ bản của con người là tự do. Hàng trăm ngàn người diễu hành qua các thành phố Đông Âu đã chứng minh điều này. Họ chỉ đơn giản bày tỏ nhu cầu được tự do và dân chủ của con người. Yêu cầu của họ không liên quan gì đến một ý thức hệ mới; nguyện vọng chân thành của họ đơn giản là được tự do. Như các hệ thống cộng sản đã giả định, chỉ cung cấp cho người dân cái ăn, chỗ ở và quần áo thôi là không đủ. Bản chất sâu xa của chúng ta đòi hỏi được hít thở không khí quý giá của tự do.
Cuộc cách mạng hoà bình ở Liên Xô cũ và Đông Âu đã dạy cho chúng ta nhiều bài học để đời. Một là giá trị của chân lý. Mọi người không thích bị bắt nạt, lừa gạt hoặc dối trá bởi cá nhân hoặc hệ thống nào. Những hành động như vậy là trái với tinh thần nhân bản chủ yếu. Vì vậy, những người mà lừa dối và dùng vũ lực có thể đạt được nhiều thành công nhất thời, nhưng cuối cùng họ sẽ bị lật đổ.
Sự thật chính là cái bảo đảm tốt nhất và là nền tảng thực sự của tự do và dân chủ. Mạnh hay yếu hoặc có nhiều hay ít người ủng hộ mình – điều đó không thành vấn đề, sự thật vẫn dành ưu thế. Gần đây, nhiều phong trào tự do thành công được dựa trên sự biểu hiện chân thật của cảm xúc cơ bản nhất của con người. Đây là một lời nhắc nhở giá trị rằng chính sự thật vẫn còn thiếu nghiêm trọng trong đời sống chính trị của chúng ta. Đặc biệt trong việc xúc tiến các quan hệ quốc tế chúng ta rất ít tôn trọng sự thật. Chắc chắn là các quốc gia yếu hơn sẽ bị điều khiển và áp bức bởi những nước mạnh hơn, cũng giống như những bộ phận yếu trong hầu hết các xã hội phải cam chịu áp lực của các khối giàu có và quyền uy hơn. Trong quá khứ, sự biểu hiện đơn giản của sự thật thường bị bác bỏ là không thực tế, nhưng những năm gần đây đã chứng minh rằng nó là một sức mạnh to lớn trong tâm trí con người, và như kết quả là việc hình thành của lịch sử.
Khi chúng ta tiến đến gần cuối thế kỷ XX, chúng ta thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn và nhưng người sống trong đó hầu như trở thành một cộng đồng. Chúng ta cũng xích lại gần nhau hơn bởi những vấn đề nghiêm trọng mà chúng ta đang phải đối mặt: nạn bùng nỏ dân số, tài nguyên thiên nhiên hao mòn và khủng hoảng môi trường đe doạ chính nền tảng của sự sống trên hành tinh nhỏ mà chúng ta đang chia sẻ. Tôi tin rằng để đối đầu với những thách thức của thời đại chúng ta, con người sẽ phải phát triển một ý thức trách nhiệm lớn hơn đối với thế giới. Mỗi người chúng ta phải học cách làm việc không chỉ vì bản thân, gia đình hoặc quốc gia, mà vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Trách nhiệm chung là bí quyết thiết thực của sự sống còn của con người. Đấy là nền tảng tốt nhất cho hòa bình thế giới, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và quan tâm thích đáng đến môi trường.
Nhu cầu hợp tác cấp bách này chỉ có thể tiếp thêm sức mạnh cho nhân loại vì nó giúp chúng ta nhận ra rằng nền tảng an toàn nhất cho trật tự thế giới mới không chỉ là liên minh chính trị và kinh tế rộng hơn mà còn là sự thành tâm của mỗi người đối với tình thương yêu và từ bi. Những đức tính này là nguồn cơ bản của hạnh phúc con người, và nhu cầu về những phẩm hạnh này ở ngay trong tâm can của chúng ta. Thực hành từ bi không chỉ là sự biểu hiện của chủ nghĩa lý tưởng phi thực tế mà còn là cách hữu hiệu nhất để mưu cầu những lợi ích tốt nhất của người khác cũng như của riêng mình. Với tư cách là quốc gia hoặc cá nhân, chúng ta càng phụ thuộc vào người khác, thì đảm bảo sự an vui cho họ sẽ càng có lợi cho chúng ta.
Mặc dù nền văn minh có những tiến bộ nhanh chóng trong thế kỷ này, tôi tin rằng nguyên nhân trực tiếp nhất của tình trạng tiến thoái lưỡng nan hiện nay của chúng ta là ta chỉ đặt tầm quan trọng quá mức vào sự phát triển vật chất. Chúng ta đã quá say mê theo đuổi nó mà thậm chí không biết là chúng ta đã sao lãng việc nuôi dưỡng những nhu cầu cơ bản nhất của con người về tình yêu thương, lòng từ bi, sự tương tác và chăm sóc lẫn nhau. Nếu ta không biết ai đó hoặc không cảm thấy gắn bó với một cá nhân hay một nhóm người nào đó, đơn gián là ta bỏ qua những nhu cầu của họ. Vậy mà sự phát triển của xã hội loài người dựa hoàn toàn vào sự tương trợ lẫn nhau. Một khi chúng ta đã mất đi nhân tính thiết yếu đó mà cũng là nền tảng của chúng ta, thì mưu cầu cải thiện vật chất để làm gì?
Trong hoàn cảnh hiện tại, không ai có thể đủ khả năng để giả định rằng một người nào khác sẽ giải quyết vấn đề của chúng ta. Mỗi cá nhân đều có trách nhiệm dẫn dắt gia đình toàn cầu của mình đi đúng hướng và mỗi người đều phải đảm nhận trách nhiệm đó. Cái mà ta phải nhắm đến là sự nghiệp của toàn xã hội. Nếu xã hội thịnh vượng nói chung, thì mỗi cá nhân hoặc hiệp hội trong xã hội đó tự nhiên sẽ được hưởng lộc từ nó. Tự nhiên họ sẽ được hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu xã hội nói chung bị sụp đổ, thì ta có thể trông cậy vào ai để tranh đấu và đòi hỏi các quyền của ta?
Đã có lần tôi thực sự tin rằng cá nhân là quan trọng đối với xã hội. Là một Phật tử, tôi cố gắng tự phát triển lòng bi mẫn – không chỉ trên quan điểm tôn giáo, mà từ lòng nhân đạo. Để khuyến khích bản thân có thái độ tha nhân này, đôi khi một mặt ta nên tưởng tượng mình là một cá thể, và mặt khác là một tập hợp quần chúng. Sau đó tự vấn bản thân, ‘Lợi ích của ai quan trọng hơn?’ Đối với tôi thì rõ ràng là tôi chỉ có một mình, dù tôi cảm thấy mình quan trọng như thế nào, trong khi những người khác lại chiếm đại đa số.
Buddhism and Democracy
Washington, D.C., April 1993
For thousands of years people have been led to believe that only an authoritarian organization employing rigid disciplinary methods could govern human society. However, because people have an innate desire for freedom, the forces of liberty and oppression have been in continuous conflict throughout history. Today, it is clear which is winning. The emergence of peoples’ power movements, overthrowing dictatorships of left and right, has shown indisputably that the human race can neither tolerate nor function properly under tyranny.
Although none of our Buddhist societies developed anything like democracy in their systems of government, I personally have great admiration for secular democracy. When Tibet was still free, we cultivated our natural isolation, mistakenly thinking that we could prolong our peace and security that way. Consequently, we paid little attention to the changes taking place in the world outside. We hardly noticed when India, one of our closest neighbours, having peacefully won her independence, became the largest democracy in the world. Later, we learned the hard way that in the international arena, as well as at home, freedom is something to be shared and enjoyed in the company of others, not kept to yourself.
Although the Tibetans outside Tibet have been reduced to the status of refugees, we have the freedom to exercise our rights. Our brothers and sisters in Tibet, despite being in their own country do not even have the right to life. Therefore, those of us in exile have had a responsibility to contemplate and plan for a future Tibet. Over the years, therefore, we have tried through various means to achieve a model of true democracy. The familiarity of all Tibetan exiles with the word ‘democracy’ shows this.
I have long looked forward to the time when we could devise a political system, suited both to our traditions and to the demands of the modern world. A democracy that has nonviolence and peace at its roots. We have recently embarked on changes that will further democratize and strengthen our administration in exile. For many reasons, I have decided that I will not be the head of, or play any role in the government when Tibet becomes independent. The future head of the Tibetan Government must be someone popularly elected by the people. There are many advantages to such a step and it will enable us to become a true and complete democracy. I hope that these moves will allow the people of Tibet to have a clear say in determining the future of their country.
Our democratization has reached out to Tibetans all over the world. I believe that future generations will consider these changes among the most important achievements of our experience in exile. Just as the introduction of Buddhism to Tibet cemented our nation, I am confident that the democratization of our society will add to the vitality of the Tibetan people and enable our decision-making institutions to reflect their heartfelt needs and aspirations.
The idea that people can live together freely as individuals, equal in principle and therefore responsible for each other, essentially agrees with the Buddhist disposition. As Buddhists, we Tibetans revere human life as the most precious gift and regard the Buddha’s philosophy and teaching as a path to the highest kind of freedom. A goal to be attained by men and women alike.
The Buddha saw that life’s very purpose is happiness. He also saw that while ignorance binds beings in endless frustration and suffering, wisdom is liberating. Modern democracy is based on the principle that all human beings are essentially equal, that each of us has an equal right to life, liberty, and happiness. Buddhism too recognises that human beings are entitled to dignity, that all members of the human family have an equal and inalienable right to liberty, not just in terms of political freedom, but also at the fundamental level of freedom from fear and want. Irrespective of whether we are rich or poor, educated or uneducated, belonging to one nation or another, to one religion or another, adhering to this ideology or that, each of us is just a human being like everyone else. Not only do we all desire happiness and seek to avoid suffering, but each of us has an equal right to pursue these goals.
The institution the Buddha established was the Sangha or monastic community, which functioned on largely democratic lines. Within this fraternity, individuals were equal, whatever their social class or caste origins. The only slight difference in status depended on seniority of ordination. Individual freedom, exemplified by liberation or enlightenment, was the primary focus of the entire community and was achieved by cultivating the mind in meditation. Nevertheless, day to day relations were conducted on the basis of generosity, consideration, and gentleness towards others. By pursuing the homeless life, monks detached themselves from the concerns of property. However, they did not live in total isolation. Their custom of begging for alms only served to strengthen their awareness of their dependence on other people. Within the community decisions were taken by vote and differences were settled by consensus. Thus, the Sangha served as a model for social equality, sharing of resources and democratic process.
Buddhism is essentially a practical doctrine. In addressing the fundamental problem of human suffering, it does not insist on a single solution. Recognising that human beings differ widely in their needs, dispositions and abilities, it acknowledges that the paths to peace and happiness are many. As a spiritual community its cohesion has sprung from a unifying sense of brotherhood and sisterhood. Without any apparent centralized authority Buddhism has endured for more than two thousand five hundred years. It has flourished in a diversity of forms, while repeatedly renewing, through study and practice, its roots in the teachings of the Buddha. This kind of pluralistic approach, in which individuals themselves are responsible, is very much in accord with a democratic outlook.
We all desire freedom, but what distinguishes human beings is their intelligence. As free human beings we can use our unique intelligence to try to understand ourselves and our world. The Buddha made it clear that his followers were not to take even what he said at face value, but were to examine and test it as a goldsmith tests the quality of gold. But if we are prevented from using our discrimination and creativity, we lose one of the basic characteristics of a human being. Therefore, the political, social and cultural freedom that democracy entails is of immense value and importance.
No system of government is perfect, but democracy is closest to our essential human nature. It is also the only stable foundation upon which a just and free global political structure can be built. So it is in all our interests that those of us who already enjoy democracy should actively support everybody’s right to do so.
Although communism espoused many noble ideals, including altruism, the attempt by its governing elites to dictate their views proved disastrous. These governments went to tremendous lengths to control their societies and to induce their citizens to work for the common good. Rigid organisation may have been necessary at first to overcome previously oppressive regimes. Once that goal was fulfilled, however, such rigidity had very little to contribute to building a truly cooperative society. Communism failed utterly because it relied on force to promote its beliefs. Ultimately, human nature was unable to sustain the suffering it produced.
Brute force, no matter how strongly applied, can never subdue the basic human desire for freedom. The hundreds of thousands of people who marched in the cities of Eastern Europe proved this. They simply expressed the human need for freedom and democracy. Their demands had nothing to do with some new ideology; they were simply expressing their heartfelt desire for freedom. It is not enough, as communist systems have assumed, merely to provide people with food, shelter and clothing. Our deeper nature requires that we breathe the precious air of liberty.
The peaceful revolutions in the former Soviet Union and Eastern Europe have taught us many great lessons. One is the value of truth. People do not like to be bullied, cheated or lied to by either an individual or a system. Such acts are contrary to the essential human spirit. Therefore, those who practice deception and use force may achieve considerable short-term success, but eventually they will be overthrown.
Truth is the best guarantor and the real foundation of freedom and democracy.
Truth is the best guarantor and the real foundation of freedom and democracy. It does not matter whether you are weak or strong or whether your cause has many or few adherents, truth will still prevail. Recently, many successful freedom movements have been based on the true expression of people’s most basic feelings. This is a valuable reminder that truth itself is still seriously lacking in much of our political life. Especially in the conduct of international relations we pay very little respect to truth. Inevitably, weaker nations are manipulated and oppressed by stronger ones, just as the weaker sections of most societies suffer at the hands of the more affluent and powerful. In the past, the simple expression of truth has usually been dismissed as unrealistic, but these last few years have proved that it is an immense force in the human mind, and, as a result, in the shaping of history.
As we approach the end of the twentieth century, we find that the world has grown smaller and the world’s people have become almost one community. We are also being drawn together by the grave problems we face: overpopulation, dwindling natural resources, and an environmental crisis that threaten the very foundation of existence on this small planet we share. I believe that to meet the challenge of our times, human beings will have to develop a greater sense of universal responsibility. Each of us must learn to work not just for his or her own self, family or nation, but for the benefit of all humankind. Universal responsibility is the real key to human survival. It is the best foundation for world peace, the equitable use of natural resources, and the proper care of the environment.
This urgent need for cooperation can only strengthen mankind, because it helps us recognize that the most secure foundation for the new world order is not simply broader political and economic alliances, but each individual’s genuine practice of love and compassion. These qualities are the ultimate source of human happiness, and our need for them lies at the very core of our being. The practice of compassion is not just a symptom of unrealistic idealism, but the most effective way to pursue the best interests of others as well our own. The more we – as nations or as individuals – depend upon others, the more it is in our own best interests to ensure their well-being.
Despite the rapid advances made by civilization in this century, I believe that the most immediate cause of our present dilemma is our undue emphasis solely on material development. We have become so engrossed in its pursuit that, without even knowing it, we have neglected to foster the most basic human needs of love, kindness, cooperation and caring. If we do not know someone or do not feel connected to a particular individual or group, we simply overlook their needs. And yet the development of human society is based entirely on people helping each other. Once we have lost the essential humanity that is our foundation, what is the point of pursuing only material improvement?
In the present circumstances, no one can afford to assume that someone else will solve our problems. Every individual has a responsibility to help guide our global family in the right direction and we must each assume that responsibility. What we have to aim at is the common cause of our society. If society as a whole is well off, every individual or association within it will naturally gain from it. They will naturally be happy. However, if society as a whole collapses, then where can we turn to fight for and demand our rights?
I, for one, truly believe that individuals can make a difference in society. As a Buddhist monk, I try to develop compassion myself – not just from a religious point of view, but from a humanitarian one as well. To encourage myself in this altruistic attitude, I sometimes find it helpful to imagine myself, a single individual, on one side and on the other a huge gathering of all other human beings. Then I ask myself, ‘Whose interests are more important?’ To me it is then quite clear that, however important I may feel, I am only one, while others form the majority.