TINH HOA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
THE ESSENTIALS OF BUDDHIST PHILOSOPHY
JUNJIRO TAKAKUSU
高楠順次郎
Người dịch
TUỆ SỸ
GIỚI THIỆU
Nhan đề xuất bản lần thứ nhất do Ban Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh là Các Tông phái của Đạo Phật. Đó là nhan đề của tập giáo trình làm tài liệu cho sinh viên nghiên cứu Phật hoc. Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy mà lần tái bản này sẽ giữ nguyên, dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên đề của sách đã nói rõ mục đích của tác giả khi viết sách. Như ông tự giới thiệu trong chương dẫn nhập, ông trình bày triết học Phật giáo theo xu hướng hệ thống. Mỗi tông phái đại diện cho một xu hướng đặc sắc.
Tuy nhiên, nội dung sách có giới hạn của nó. Đó là chỉ giới hạn trong các xu hướng Phật học Trung hoa và Nhật bản. Tất nhiên tác giả cũng có đề cập đến nền tảng nguyên thủy của mỗi hệ tư tưởng. Theo bản ý của tác giả, thành tựu của triết học Phật giáo Trung hoa, và sự phát triển của nó sang Nhật bản, như là đỉnh cao tổng hợp các xu hướng Phật giáo từ trước đã xuất hiện tại Ấn.
Về tác giả, những người nghiên cứu Phật học qua tham khảo Hán tạng đều biết ơn ông trong sự biên tập và san định bộ Đại Chính tân tu Đại tạng kinh, 100 quyển. Đây là kho tàng văn hiến Phật giáo vĩ đại nhất của thế giới còn truyền đến ngày nay.
Tác phẩm này được xem là công trình tập hợp của ông suốt cả cuộc đời nghiên cứu Phật học. Hầu hết các chương đều từ tài liệu mà ông chuẩn bị ở Tokyo để diễn giảng trong một loạt các buổi giảng tại Viện Đại học Hawaii khi ông được Viện này mời làm Giáo sư biệt thỉnh, giảng khóa 1938-1939. Năm 1939, một cuộc hội thảo của các nhà Triết học Đông Tây họp tại Viện Đại học Hawaii, sách của ông được chọn làm văn bản thảo luận. Kết quả hội thảo được giới thiệu trong tạp chí Triết học Đông-Tây, xuất bản năm 1944 do Ban Tu thư Viện Đại học Princeton.
Bản dịch Việt tái bản lần này được duyệt lại, có thay đổi và sửa chữa nhiều chỗ. Để giúp người học có thêm tài liệu tham khảo các vấn đề liên hệ, thỉnh thoảng người dịch thêm chú thích, ngoài các chú thích của chính tác giả. Những chú thích thêm của người dịch đều có ghi TS.
Ngoài công trình cống hiến cho bộ Đại Chính Tân tu Đại tạng kinh, và tác phẩm này, ông còn viết và dịch nhiều tác phẩm Phật học khác nữa như được liệt kê dưới đây:
Về biên tập:
大正新修大藏經 Đại Chính Tân tu Đại tạng kinh, 100 tập.
The Pāli Samanta-pāsādikā, bốn tập (chung với Nagai). Ấn bản Pāli của Luật Thiện kiến tì-bà-sa.
南傳大藏經 Nam truyền Đại tạng kinh, bản dịch tiếng Nhật của Tam tạng Pāli gồm cả các sớ giải.
Hōbōgirin, dictionaire encyclopédique du bouddhisme d’ après les sources chinoises et japonaises ( 法寶義林Pháp bảo nghĩa lâm), ba tập, gồm một bản tăng bổ (với Sl. Lévi).
The Śākuntala, kịch Sanskrit của Kālidāsa.
大日本佛教全書 Đại Nhật bản Phật giáo toàn thư, 160 tập (với Shinkyō Mochizuki và Seigai Omura).
Tác phẩm:
巴利語佛教講本 Ba-lị ngữ Phật giáo học giảng bản, văn học Phật giáo Pāli.
印度佛哲學宗教史 Ấn độ Phật triết học tông giáo sử, chung với Kimura.
昭和法寶總目錄 Chiêu hòa Pháp bảo tổng mục lục, ba tập.
印度佛教史蹟寫實 Ấn độ Phật giáo sử tích tả thật. “The Date of Vasubandhu, the Great Buddhist
Philosophe”, Indian Study in Honor of Charles Rockwell Lanman.
Phiên dịch:
A Record of the Buddhist Religion as practised in India and Malay Archipelago (671-695 stl.), bởi Nghĩa Tịnh ( 義淨南海寄歸傳 Nghĩa Tịnh, Nam hải ký quy truyện).
Amitāyur Dhyāna-tra (The Sūtra of the Meditation on Amitayus) (The Sacred Book of the East, Vol. XLIX). 觀無量壽經 Quán Vô Lượng Thọ kinh.
“The Life of Vasubandhu” by Paramārtha (T’oung Pao).
“The Abhidharma Litterature of the Sarvāstivādin” (Journal of the Pāli Text Society, 1905).
ウパ ニシ ヤト 全書 Bản dịch tiếng Nhật 108 Upanishads, chín tập (chung với nhiều người).
薄伽梵歌 Bạc-già-Phạn-ca, bản dịch tiếng Nhật
Bhagavad-gītā.
印度古聖歌 Ấn độ cổ thánh ca bản dịch tiếng Nhật Rig-veda.
“Le voyage de Kanshin en Orient” (724-754), Aomi- no Mabito Genkai (779) B.E.F.E.O., t. XXVIII et XXIX). Quá Hải Đại sư Đông chinh truyện.
Thị ngạn am,
Pl. 2547, Quý mùi, Đông.
Tuệ Sỹ
CHƯƠNG I
DẪN NHẬP
1. TRÌNH BÀY PHẬT GIÁO BẰNG CÁCH NÀO?
Giảng luận về triết học Phật giáo thường được bắt đầu với triết học của Phật giáo Ấn độ, và về phương diện này, theo dấu sự phát triển của tư tưởng Phật giáo ở Ấn độ, nơi mà nó đã hưng thịnh suốt 1500 năm, là điều quan trọng. Nhưng nên nhớ rằng, trước khi đạo Phật suy vi tại Ấn vào thế kỷ thứ XI, thì những phát triển đa dạng của nó cũng đã lan truyền xa sang các nước khác. Tiểu thừa Phật giáo (Hinayāna), chú trọng giải thoát cá nhân, tiếp tục phát triển tại Tích lan, Miến điện, Thái lan và Cam bốt. Phật giáo Mật tông hay Phật giáo bí truyền đã phát triển thành Lạt-ma giáo (Lamaism) tại Tây tạng. Đại thừa Phật giáo (Mahāyāna), chú trọng giải thoát toàn thể, hưng phát tại Trung hoa, là nơi mà những nghiên cứu Phật học đã tiến những bước rất dài và những tư tưởng khác nhau trong các tông phái Đại thừa được hệ thống hóa.
Tuy nhiên, ở Nhật bản, tổng thể của Phật giáo được bảo trì – tất cả các học thuyết của các trường phái Tiểu thừa lẫn Đại thừa. Tuy Tiểu thừa Phật giáo hiện nay không tồn tại ở Nhật bản như một tín ngưỡng năng động; nhưng các giáo nghĩa của nó vẫn được các học giả Phật giáo nghiên cứu. Mật giáo (N. Mikkyô) 密教, mà chúng ta có thể định danh là Học thuyết Bí truyền (Esoteric Doctrine) hay Chủ nghĩa Thần bí (Mysticism), được giới thiệu đầy đủ ở Nhật bản bởi Thai Mật hay chủ nghĩa huyền bí của Thiên thai (Tendai) 天台 và Đông Mật hay chủ nghĩa huyền bí của Đông tự (N. Tôji) 東寺. Điểm mà chủ nghĩa huyền bí Nhật bản có thể tự hào là nó không chứa đựng những yếu tố dung tục như đồng điệu của nó tại các nước khác, mà lập cước trên cơ sở triết học vững chắc.
Những tông phái phát triển mạnh nhất tại Trung hoa là Hoa nghiêm (N. Kegon) 華 嚴 và Thiên thai (N. Tendai). Khi Thiền tông (Zen) thêm vào với hai tông này, cả ba đại biểu cho đỉnh cao phát triển của Phật giáo. Ba tông phái này hưng thịnh tại Trung hoa một thời rồi suy vi, nhưng tại Nhật bản, cả ba vẫn tồn tại trong các tín ngưỡng của quần chúng cũng như trong những nghiên cứu hàn lâm.
Một hình thức khá mới của Phật giáo là chủ nghĩa sùng tín Di-dà (Amita-pietism). Tông phái này khá phổ biến tại Trung hoa, Tây tạng, Mông cổ, Mãn châu và Việt nam.[1] Nhưng hưng thịnh nhất là ở Nhật bản, nơi đó có hơn phân nửa dân số tin theo.
Theo đó, tôi tin rằng, con đường duy nhất để trình bày toàn bộ triết lý của đạo Phật với mọi tông phái dị biệt của nó là thiết lập một bảng toát yếu về Phật giáo ở Nhật bản. Chính ở tại Nhật mà toàn bộ văn hiến của Phật giáo, tức Tam tạng (Tripitaka), được tồn trữ và được khảo cứu đến.
Tam tạng kinh điển,[2] cốt yếu là bản Hán dịch, đã được đưa vào Nhật bản, từ Trung hoa, vào các thời đại Đường (618- 907) và Tống (960-1279). Bấy giờ gồm có 5.048 quyển, tất cả đều được tồn trữ tại Nhật bản, trong khi một số đã bị thất lạc ở Trung hoa. Tại Nhật, Văn hiến Tam tạng được ấn hành tối thiểu bốn lần, mỗi lần ấn hành đều có bổ sung nhiều quyển mới. Gần đây, tôi chịu trách nhiệm hoàn tất ấn bản mới nhất, tập hợp các bản biên tập của Trung hoa và Triều tiên cũng như những bản vừa được tìm thấy tại Trung Á và Nhật bản; một công trình kéo dài mười ba năm – gồm
13.520 quyển, chia làm 100 tập mỗi tập 1.000 trang.[3]
Cũng không mấy cần thiết phải mô tả vô số tự viện ở Nhật bản, vốn là những trung tâm học Phật. Nhưng tôi phải ghi nhận rằng có sáu viện Đại học mạnh trực thuộc Phật giáo chọn triết học Phật giáo làm bộ môn chính yếu cho học trình. Ngoài ra, còn nhiều học viện (college) và các trường sở dưới sự bảo trợ Phật giáo. Triết học Phật giáo, Sanskrit và Pāli đã được giảng dạy trong năm viện Đại học của chính phủ.
Trong bản nghiên cứu triết học Phật giáo hiện tại, chủ đề không được trình bày theo tiến trình lịch sử của nó, mà là theo tiến trình ý thức hệ. Tiến trình ý thức hệ không có nghĩa là một tiến trình trong sự phát triển của các ý niệm, mà đúng hơn là hệ thống hóa tư tưởng của các tông phái dị biệt, mục đích là để tiếp cận dễ dàng hơn.
Do bởi cách tiếp cận riêng biệt của tôi về đề tài, tôi sẽ trình bày một bảng phân loại tư tưởng Phật giáo, khác với bảng của giáo sư Schertbatsky vốn đã trình bày vô cùng tỉ mỉ về các ý niệm Phật giáo trong quyển Luận lý học Phật giáo[4] của ông. Ông phân chia lịch sử Phật giáo trong 1.500 năm đầu làm 3 thời kỳ, mỗi thời kỳ là 500 năm, kể từ năm 500 trước tây lịch, như sau:
Sơ kỳ | Trung kỳ | Hậu kỳ |
Đa nguyên luận | Nhất nguyên luận | Duy tâm luận |
Pudgala-śūnyatā | Sarvadharmaśūnyatā | Bāhya-artha-śūnyatā |
Nhân không | Nhất thiết Pháp không | Ngoại cảnh không |
Trong bảng này, Giáo sư Schertbatsky có nêu rõ các tông phái cực đoan và trung dung của mỗi thời kỳ.
Về mặt lịch sử, bảng của Giáo sư khá xác đáng, và tôi lưu ý sự kiện hưng khởi Duy thức luận của Vô Trước (Asaṅga)[5] và Thế Thân (Vasubandhu), phản ứng lại Không luận của Long Thọ (Nāgārjuna).[6] Tuy nhiên, vì không thể đặt Không luận của Ha-lê Bạt-man (Harivarman)[7] sau Long Thọ, nên tôi tự lập một đồ biểu sau đây, với nhà đại tư tưởng và đại luận sư Thế Thân như là khởi điểm cho sự phát triển tư tưởng Phật giáo (xem trang bên):
Theo đồ biểu của tôi, Nāgārjuna (Long Thọ), triết gia sớm nhất của triết học Phật giáo, được đặt sau Harivarman và Vasubandhu, như có thể thấy trong bảng. Tuy nhiên, khi cần đặt sự phát triển của các ý niệm vào một mẫu thức giản đơn, thì sự không nhất trí như thế không thể tránh. Ở Trung hoa, khi một giảng sư dấn thân vào những nghiên cứu triết học, ông thường không mấy lưu tâm khía cạnh lịch sử của các quan niệm, mà đi thẳng vào tư biện của thứ triết học nào hấp dẫn ông. Vì vậy, không ích lợi gì nhiều khi nghiên cứu các quan niệm Phật học theo tiến trình lịch sử.
2. PHẬT GIÁO TRONG LỊCH SỬ TRUNG HOA
Lịch sử các hoạt động của Phật giáo tại Trung hoa bao quát trong khoảng 1.200 năm (67-1271 stl.), và trên thực tế, được đồng nhất với lịch sử phiên dịch Phật điển Trung hoa. Trong khoảng thời gian này, 173 vị sư Ấn độ và Trung hoa đã dâng hiến trọn đời cho công cuộc phiên dịch công phu, và kết quả là văn hiến vĩ đại của Hán dịch Đại Tạng Kinh.
Những nghiên cứu tường tận về các bản kinh dịch này được tiếp nối và nhiều học phái về tư tưởng hay hệ phái tôn giáo được thành lập. Chúng ta có thể trích ra những tông phái đáng chú ý nhất (trong số mười bốn tông phái tất cả) cho mục đích ở đây. Hầu hết các phái này đã được truyền vào Nhật bản. Nhưng chúng ta không phải bận tâm tường thuật chi li ở đây, vì sẽ trở lại vấn đề này khi tìm hiểu triết thuyết của mỗi phái.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng, đời Tùy (518-618) và đời Đường (618-907) là thời kỳ mà các tông môn phái biệt được kiện toàn; và các học phái này được thiết lập hay khởi sáng thời đại trước đó do các nhân vật tài năng từng phiên dịch hay giới thiệu các bản văn. Vậy bây giờ, chúng ta khảo sát danh sách các tông phái này được thiết lập và kiện toàn trên đất Trung hoa. Danh sách này chỉ rõ sự phát triển rộng lớn và sự hệ thống hoá Phật giáo tại Trung hoa.
DANH SÁCH CÁC TÔNG PHÁI TRUNG HOA[8]
Trong những tông phái này, có mười tông (2, 3, 4, 7, 8, 10, 11, 12, 13, 14) đã được truyền sang Nhật bản; nhưng Câu- xá (10), Thành Thật (2) và Tam Luận (3) không được xem như những tông phái hành trì mà chỉ được duy trì nhằm mục đích đào luyện và chuẩn bị tâm trí Phật học cho suy luận và phê phán cao hơn mà thôi.
3. NHẬT BẢN, MÔI TRƯỜNG CỦA ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO
Phật giáo chính thức du nhập Nhật bản năm 552 qua ngã Bách tế,[9] một vương quốc thuộc Cao-ly (Korea), nhưng 30 năm trước đó, tượng Phật đã được mang vào Nhật rồi. Năm 594, Thánh Đức Thái tử[10] (Shôtoku Taishi; 574-622) tuyên bố Phật giáo là quốc giáo.
Phật giáo lúc đó chưa phân biệt tông phái mặc dầu giữa Đại thừa và Tiểu thừa đã có sự khác biệt rõ rệt. Thái tử đã chuyên chú vào công cuộc khảo cứu Đại thừa và đã từng viết các sớ giải về ba quyển kinh thuộc Đại thừa.[11] Tiếng tăm của các bản chú giải xuất sắc này lan ra đến nước ngoài và một bộ đã được một học giả Trung hoa chọn làm chủ đề cho các sớ giải về sau.[12]
Chúng ta có thể biết được đặc điểm của Đại thừa theo Thái tử qua các bản kinh mà ngài đã lựa chọn. Trước hết là kinh Diệu Pháp Liên Hoa thuộc giáo lý Nhất thừa (Ekayāna). Thứ hai là Bất tư nghị Giải thoát kinh,[13] do một vị tại gia Bồ-tát ở thành Tỳ-da-ly (Vaisali) tên là Duy-ma-cật (Vimalakīrti) thuyết. Và thứ ba là kinh Thắng Man[14] do một vị nữ tại gia Bồ-tát là Thắng Man phu nhân (Śrīmālā) ở thành A-du-xà (Ayodhyā) thuyết.[15] Tư tưởng chính yếu của thời kỳ chưa phân biệt tông phái này là Đại thừa giáo, như đã được diễn tả trong ba bộ kinh đó. Quan niệm này đã vẫn còn là đặc điểm nổi bật của Phật giáo suốt trong lịch sử Phật giáo Nhật bản.
4. HỆ THỐNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO NHẬT BẢN.
Để diễn tả toàn bộ Phật giáo, như tôi đã nhấn mạnh ở trên, tốt hơn hết là trình bày theo sự phát triển triết lý của nó. Để cho rõ ràng, tôi sẽ sắp các tông phái theo hai tiêu đề: các tông phái thuộc Duy lý luận phủ định (Negative Rationalism) tức là hệ Tôn giáo của Suy lý biện chứng (Dialectic Investigation), và các tông phái thuộc Trực giác luận nội quan (introspective intuitionism) tức là hệ Tôn giáo của Kinh nghiệm tư duy (Religion of Meditative Experience).
Ai cũng biết rằng Phật giáo chú trọng ba môn học (tam học, tissraḥ śikṣāḥ): Tăng thượng Giới, Tăng thượng Tâm và Tăng thượng Tuệ. Nghĩa là, nếu không trì giới thì tâm không định; tâm không định thì không phát tuệ. Định ở đây bao gồm những kết quả vừa tư duy phân tích, vừa trực giác quán chiếu. Tiếp đó, Phật giáo dạy hành giả, khi hội đủ năng lực, tiến vào ba đường hướng (đạo: mārga) là Kiến đạo (Life-View, quan điểm sống), Tu đạo (Life-Culture, tu dưỡng sống) và Vô học đạo (Realization of Life-Ideal, Thể nghiệm Lý tưởng sống).[16] Nói cách khác, nếu không có quan điểm chân chính về đời sống thì sẽ không có sự tu dưỡng, và nếu không có sự tu dưỡng chính đáng thì sẽ không có sự thể nghiệm đời sống. Sự tu dưỡng ở đây lại có nghĩa là kết quả của suy tư chân chính.
Giáo pháp truyền thừa của Phật có hai phần là Chính lý (nyāya, suy lý đúng) và Chính định (dhyāna, tư duy đúng). Một bộ phận các tông phái nghiêng về phương pháp thứ nhất, ở đây, tôi xếp vào hệ Duy lý luận phủ định. Cũng có thể nói, nếu sắp Thực tại luận vào trong hệ Duy lý luận phủ định này là điều sai lầm. Tuy nhiên, nếu chúng ta thấy rằng hệ này duy trì giáo nghĩa Vô ngã, Vô thường, Khổ và Sát- na biến diệt của đời sống, thì ta không thể giả định quá đáng về những sắc thái tích cực của nó. Về các tông phái còn lại, không cần thiết phải giải thích.
Hệ các tông phái khác tôi xếp vào chủ nghĩa Trực giác quán chiếu, vì tất cả các tông này được giảng thuyết tùy thuận theo kết quả hoạt động tư duy hay quán chiếu của tâm, chứ không phải bằng suy luận biện chứng, hay tri giác đơn thuần của các giác quan.[17] Các tông phái trực quán này lại được chia làm hai loại: Đốn (Undifferentiative, không phân cấp) và Tiệm (Differentiative, có phân cấp).
Theo ý tôi, Phật giáo có thể được phân loại như sau:
I
CÁC TÔNG PHÁI THUỘC PHỦ ĐỊNH DUY LÝ LUẬN[18]
- Thực tại luận (Realism, Nhất thiết hữu bộ: Sarvāstivāda, A-tì-đàm tông: Abhidharmika): Abhi-dharmakośa (A-tì đạt- ma câu-xá), Câu-xá tông 俱舍宗 [Hữu tông].
- Hư vô luận (Nihilism, Nhất thiết không tông: Sarvaśūnyavāda; Kinh lượng bộ: Sautrāntika), Thành thật tông 成實宗 [Không tông].
- Duy tâm luận (Idealism, Duy thức tông: Vijñaptimātravāda), Du-già hay Pháp tướng tông 法 相 宗[Hữu-Không tông].
- Phủ định luận (Nhất thiết không tông: Sarvaśūynavāda): Trung quán hay Tam luận tông 三論宗 [Phi Hữu phi Không tông].
II
CÁC TÔNG PHÁI THUỘC NỘI QUÁN TRỰC GIÁC LUẬN[19]
A. Trực giác vô phân biệt (đốn giáo)[20]
- Viên giáo:[21] Hoa Nghiêm tông 華嚴宗.
- Tướng tông:[22] (Pháp Hoa, Nhất thừa giáo): Thiên thai tông 天台宗 hay Pháp hoa tông 法華宗.
- Mật giáo (Mantra): Chân ngôn tông 真言宗.
- Thiền tông (Dhyāna), chia làm 4 chi phái:
a) Tông Lâm Tế (Rinzai) 臨 濟 宗 thiết lập bởi Vinh Tây 榮西(Eisai, 1141-1215).
b) Tông Tào động 曹洞宗 (Sôtô) do Đạo Nguyên 導元 (Dôgen).
c) Tông Phổ hóa 普化宗 (Fuke) do Giác Tâm 覺心 (Kakushin), thành lập năm 1255, diệt năm 1868.
d) Tông Huỳnh Bá 黃 檗 宗 (Ôbaku),do Ẩn Nguyên 隱元 (Ingen, 1592-1673).
B. Trực giác phân cấp (tiệm giáo)
- Sùng tín Di-đà (Sukhavati): Tịnh độ tông , chia làm 4 chi phái:
a) Tịnh độ tông 淨土宗 (Jôdo) do Pháp Nhiên 法然 (Hônen, 1133-1212) lập.
b) Chân tông 真宗 (Shin) do Thân Loan 親鸞 (Shinran, 1173-1262).
c) Dung thông niệm Phật tông 融 通 念 佛宗(Yùzùnembutsu) do Lương Nhẫn 良 忍 (Ryonin, 1071 – 1132) lập.
d) Thời tông 時宗(Ji) do Nhất Biến 一遍 (Ippen, 1239- 1289) lập.
- Nhật Liên tông 日蓮宗 do Nhật Liên 日蓮(Nichiren, 1222-1282) lập.
- Luật tông tức Tân Luật tông 新 律 宗 (Ritsu) do Duệ Tôn 叡尊 (Eison, 1201-1290) lập.
[1] Annam trong nguyên bản. DG
[2] Đại tạng kinh 大 藏 經 . Đây là nền tảng của văn hiến Phật giáo, bao gồm ba phân bộ về giáo nghĩa của Phật giáo: các bài pháp của Phật; kỹ luật tu đạo; các luận thuyết triết học.
[3] Taishô Shinshù Daikyô 大政新修大藏經 Đại Chính tân tu Đại tạng kinh (Ấn bản Taishô của Tam tạng Hán văn). Biên tập bởi J. Takakusu, Watanabe, và G. Ono. 100 tập. Tokyo, 1929. Các dẫn chúng trong sách này ghi là Taishô. (hoặc đơn giản: T. – TS)
[4] Th. Stcherbatsky: Buddhist Logic, 2 tập (Bibliotheo Buddhica Vol. XXVI). Leningrad, 1932; Vol. I, p. 14.
[5] Vô Trước (Asaṅga) 無 著 khoảng 410 – 500 TL.; Thế Thân (Vasubandhu) 世親 khoảng 420 – 500 TL.
[6] Long Thọ (Nāgārjuna) 龍 樹 khoảng 100 – 200 TL. Xem cột 4 biểu đồ sau đây.
[7] Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) 訶梨跋摩, dịch: Sư Tử Khải 師子鎧 khoảng 250 – 350 TL. Xem cột 2 biểu đồ kèm theo.
[8] Những tông được in đậm có truyền vào Nhật bản.
[9] Paikche 百濟
[10] 聖德太子
[11] Thắng man kinh nghĩa sớ 勝鬘經義疏 1 quyển, AD. 609-611, Taishô 56, No. 2185; Duy-ma-kinh nghĩa sớ, 維摩經義疏, 5 quyển, AD. 612-613, Taishô 56, No 2186; Pháp hoa nghĩa sớ 法 華 義 疏 4 quyển, AD. 614-615, Taishô 56, No 2187. (TS)
[12] Tác giả muốn nói đến bộ Thắng man nghĩa sớ được Minh Không mang về Trung quốc. (TS)
[13] Tên tiếng Anh của tác giả Discourse on the Ultimate Truth (Diễn thuyết về Chân lý tối hậu), dịch ý theo gợi ý “pháp môn bất khả tư nghị.” Kinh này có ba bản dịch khác nhau: 1. Phật thuyết Duy-ma-cật kinh 佛說維摩詰經, Ngô Chi Khiêm dịch (Taishô XIV No.474); 2. Duy-ma-cật sở thuyết kinh 維摩詰所說經, Cưu-ma-la-thập dịch (Taishô 14 No. 475 No. 475); 3. Thuyết Vô cấu xưng kinh 說無垢稱經, Huyền Tráng dịch (Taishô XIV No 476). (TS)
[14] Tên tiếng Anh theo tác giả: Earnest Resolve (Quyết định nghiêm túc); của từ “Sư tử hống” vốn được hiểu là “quyết định thuyết.” (TS)
[15] Saddharma-puṇḍarika 妙法蓮華經, Taishô 9 No 262; Vimalakīrti- nirdeśa 維摩詰所說經, Taishô 14 No. 475; Śrīmālādevī-siṃhanāda 勝鬘師子吼一乘大方便方廣經, Taishô 14 No. 353.
[16] Quá trình tu chứng: 1. Kiến đạo (darśana-mārga), giai đoạn trực nhận bốn Thánh đế; tương đương Dự lưu hướng. 2. Tu đạo (bhāvana- mārga), giai đoạn tu tập; tương đương Dự lưu quả cho đến A-la-hán hướng. 3. Vô học đạo (aśaikṣa-mārga), giai đoạn cứu cánh, tương đương quả vị A-la-hán. TS
[17] Introspective Intuitionism, chủ nghĩa trực giác nội quan, dịch ý của từ “Quán tông” đối lập với “Giáo tông.” TS
[18] Chỉ Giáo tông. TS
[19] Chỉ Quán tông. TS
[20] Đốn, hay viên đốn. TS
[21] Totalism: chủ nghĩa toàn thể.
[22] Phenomenology: hiện tượng luận.