Nghĩa đen của thuật ngữ này chỉ sự rải cỏ che lấp đất, bất kể là bùn sình hay cát sỏi, bất kể là đen hay trắng. Nó cũng được dịch là như thảo bố địa, hay như thảo yểm địa. Ý nghĩa giống nhau.
Căn bản của quy tắc này là sự sám hối tập thể, hay phổ đồng sám hối. Nhưng trong khi áp dụng vào các tránh sự, quy tắc này bao gồm hai phương diện. Phương diện thứ nhất, với ý nghĩa là sám hối. Phương diện thứ hai, với ý nghĩa là hòa giải.
Nói là sám hối tập thể vì phạm tội tập thể. Tức toàn thể Tăng trong trú xứ ấy phạm tội hết, không còn sót lại một Tỳ-kheo thanh tịnh nào để làm tác chủ thọ sám. Trong cách sám hối tập thể này, chỉ nêu tổng chung rằng: “Chúng ta đều phạm nhiều tội”. Chứ không nêu rõ tội danh của từng thiên và từng người, giống như sự rải cỏ che lấp bất cứ bùn sình cát sỏi mà không phân biệt thứ nào cả, nhất loạt khỏa lấp hết. Tuy nhiên, các tội phạm được tổng chung trong phép sám hối này cũng chỉ bao gồm các tội từ thiên ba-dật-đề trở xuống. Các Tỳ-kheo nào phạm tăng tàn, thâu-lan-giá phải tác pháp riêng, theo luật định về thể thức sám hối của các tội này. Nếu phạm ba-la-di, bị diệt tẫn chứ không cho sám hối.
Về phương diện thứ hai, khi toàn thể Tăng trong một trú xứ chia thành hai phe kình chống nhau, nếu không còn biện pháp giải quyết nào thỏa mãn, thì biện pháp cuối cùng là tất cả đồng ý dẹp bỏ vấn đề, khỏa lấp hết, không phân biệt trắng hay đen giải quyết, cũng không truy cứu nguồn gốc phát khởi tranh sự nữa. Đây là ý nghĩa hòa giải.
Tuy có hai phương diện với hai ý nghĩa của vấn đề, nhưng căn bản vẫn là sự sám hối tập thể. Tùy theo trường hợp, hoặc sám hối vì tập thể đồng phạm tội, hoặc sám hối để chấm dứt tranh chấp, thể thức tác pháp có một số chi tiết hơi khác nhau. Dưới đây nêu điển hành trường hợp sám hối để chấm dứt tranh chấp.
Cố nhiên, tại một trú xứ tranh chấp như vậy, trong đó cũng có người nhận định đúng, chứ không phải tất cả đều sai. Nhưng người có nhận định đúng, có trí tuệ cũng đành bất lực. Tuy bất lực trong khả năng giải quyết thị phi, nhưng nỗ lực tái lập sinh mệnh của Tăng là sự mệnh cao cả.
Do đó, những vị này khi ý thức được tính cách nghiêm trọng của vấn đề, sẽ đứng ra đề nghị một biện pháp hòa giải cuối cùng. Vị này sẽ trình bày trước Tăng rằng:
“Thưa các Trưởng lão. Chúng ta tranh chấp vấn đề này đã quá nhiều và quá lâu rồi. Vì sự tranh chấp ấy, khiến chúng ta có những hành vi không phù hợp sa-môn pháp, nói rằng không chừng mực, vào ra đi đứng không thuận oai nghi.”
“Nếu chúng ta truy cứu vấn đề này, tội lỗi sẽ càng thêm sâu dày. Sự tranh chấp không được diệt trừ như pháp, như tỳ-ni, như giáo huấn của Phật, khiến các Tỳ-kheo không thể sống trong an lạc. Nếu các Trưởng lão chấp thuận, tôi nay sẽ vì các Trưởng lão tác pháp như thảo phú địa để sám hối tội này.”
Đấy là lời tác bạch đề nghị của Tỳ-kheo thủ lãnh của một trong hai phe nhóm đang tranh chấp. Đối lại, trong phe kia, một Tỳ-kheo thủ lãnh hoặc được đề cử đại diện đứng ra tác bạch đề nghị phổ đồng sám hối. Nội dung tác bạch cũng như văn dẫn trên. Sau khi cả hai phía đều đồng ý tác pháp sám hối như thảo phú địa, cả hai đồng cử một Tỳ-kheo làm yết-ma sư. Vị này tác pháp yết-ma đơn bạch:
“Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay đối với sự tranh chấp này tác pháp sám hối như thảo phú địa. Đây là lời tác bạch.”
Tiếp theo đó, vị thủ lãnh hay Thượng tọa trong một phe đại diện cho các Tỳ-kheo nhóm phe mình bước ra đảnh lễ Tăng, tác pháp sám hối với lời tác bạch như sau:
“Tôi nay do bởi sự tranh chấp mà phạm các tội, trừ các trọng tội và yết-ma ngăn không đến nhà bạch y. Nếu các Trưởng lão chấp thuận, tôi nay vì các Trưởng lão và vì bản thân sám hối theo pháp như thảo phú địa.”
Đại diện của phe còn lại cũng làm và nói như thế. Tác pháp sám hối trên đây là theo Tứ phần (922c).
Văn bạch các bộ khác đương nhiên cũng khác, nhưng đây cũng là do kỹ thuật hành văn. Điều đáng nói là tất cả các bộ đều nêu điển hành sám hối tập thể vì tranh chấp mà gây tội, chứ không nêu điển hình sám hối vì tập thể phạm tội do các nguyên nhân khác. Nhưng, bản chất của như thảo phú địa là sám hối, và thể thức là tập thể phổ đồng sám hối.
Cho nên, trong thực tế nó cũng còn được áp dụng cho các trường hợp tập thể phạm tội vì những nguyên nhân khác ngoài nguyên nhân tranh chấp. Dù vậy, duyên khởi của nguyên tắc này là do nguyên nhân tranh chấp, nên các bộ chỉ nêu điển hình ấy mà thôi. Các trường hợp áp dụng khác phỏng theo đó mà thực hiện.
Nói tóm lại, sau khi đã tác pháp phổ đồng sám hối, ngoại trừ các tội và yết-ma đã nói, còn lại các vi phạm khác trong thời gian tranh chấp từ nay trở đi không Tỳ-kheo nào được phép nhắc nhở đến nữa, để khơi lại đấu tranh. Ai cố ý khơi lại, phạm ba-dật-đề, Tăng sẽ như pháp xử trị.[1]
____________
[1] Tứ phần, ba-dật-đề 66, Pāli, pācit. 63.
1 Comment
Pingback: Pháp diệt tránh: Như thảo phú địa - PhapTue_BlueHost