TIỂU SỬ
HÒA THƯỢNG THÍCH MINH TUẤN
(1959-2025)
I. Thân Thế:
Hòa Thượng họ Nguyễn tên Hùng, sinh ngày 13 tháng 5 năm 1959 (Kỷ Hợi) tại Thôn Phước Lộc, Xã Hòa Thành, Huyện Tuy Hòa, nay là Thị Xã Đông Hòa, Tỉnh Phú Yên.
Thân phụ là Cụ Nguyễn Liên.
Thân Mẫu là Cụ Bà: Nguyễn Thị Cẩu, Pháp Danh Chơn Quả, sinh trong gia đình thuần kính Tam Bảo, theo truyền thống Phật Giáo nhiều đời.
II. Quá trình xuất gia tu học:
Khi lên 11 tuổi, Hòa Thượng được Ngài Thích Nguyên Thần, hiệu Tịnh Thông (vốn là người cậu trong gia đình) dẫn đến Tu Viện Nguyên Thiều, Thôn Đại Lễ, Xã Phước Hiệp, Huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định để xuất gia tu học.
Ngày 15 tháng 4 năm 1970: Cố Hòa Thượng Thích Đồng Thiện, Đệ Nhất Trụ Trì Tu Viện Nguyên Thiều, làm Lễ Xuất Gia chính thức, thế phát cho Hòa Thượng, đặt Pháp Danh là Thị Anh (Hồng Anh), là đệ tử của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Vị Trưởng Ban Sáng Lập và là Giám Viện của Tu Viện Nguyên Thiều.
Năm 1970: Hòa Thượng vừa theo học lớp 4 tại Trường Tiểu Học trong Thôn Đại Lễ, lớp này có Hòa Thượng Thích Đồng Thinh cùng học, vừa học Phật Pháp tại Tu Viện Nguyên Thiều.
Sau đó, Cố Hòa Thượng Thích Đồng Thiện nhận thấy việc đi học phổ thông bên ngoài bất tiện nên chỉ thị cho Cố Hòa Thượng Thích Quảng Bửu, Vị Quản Chúng và Giáo Thọ lớp Phật Học tại Tu Viện Nguyên Thiều, dạy kèm Hòa Thượng cấp tốc về các môn học phổ thông để kịp theo lớp Phật Học tại Tu Viện. Các vị Hòa Thượng Thích Đồng Tu, Trụ Trì Chùa Thanh Quang, Nhơn Hưng, An Nhơn, Bình Định và Hòa Thượng Thích Minh Dung, Viện Chủ Chùa Quang Thiện, thành phố Ontario, Tiểu Bang Cali, Hoa Kỳ cùng học lớp Phật Pháp này.
Đến năm 1972, thời kỳ chiến tranh leo thang ở miền Trung ảnh hưởng đến an ninh, sinh hoạt của Tu Viện, hầu hết các vị tu sỹ cũng phải rời Tu Viện đi tản cư tránh đạn bom, Hòa Thượng vốn nguyên quán ở Tuy Hòa nên Cố Hòa Thượng Thích Đồng Thiện giới thiệu đến tạm trú tu học ở Phật Học Viện Phổ Tịnh, Tuy Hòa, Phú Yên.
Năm 1976, Vì hoàn cảnh Phật Học Viện Phổ Tịnh giải tán, Hòa Thượng trở về Tu Viện Nguyên Thiều, tiếp tục tham học Phật Pháp với Chư Tôn Thạc Đức tại Tỉnh Bình Định.
Vào ngày Rằm tháng Tám, Canh Thân (24, 25, 26 / 09/1980), cơ duyên hội đủ, vào năm 22 tuổi, Ngài đăng đàn thọ Giới Tỳ Kheo tại Đại Giới Đàn Thiện Hòa do Hòa thượng Thích Hành Trụ làm đàn đầu, Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Chủ Đàn, Giới Sư, Hòa Thượng Thích Huệ Hưng làm Yết ma, Hòa Thượng Thích Từ Nhơn làm Giáo Thọ.
Hòa Thượng vốn là người với bản tánh thông minh, sáng tạo, chịu khó nghiên cứu nên không ngừng trau dồi kiến thức và Trí Tuệ, quảng bác, đa văn, có năng khiếu văn chương, ngoại ngữ (Hán Ngữ, Anh Văn) và luôn luôn sẵn sàng chỉ dạy lại đàn hậu học, hiếu học, hữu duyên.
III. Quá trình sinh hoạt Phật sự:
Suốt trong khoảng 20 năm, kể từ năm 1976-1996, theo tình hình chung của đất nước, kinh tế nông thôn miền Trung có nhiều khó khăn thiếu thốn, 3 vị Tăng ở Nguyên Thiều, Cố HT Thích Đồng Thiện, Cố HT Thích Quảng Bửu và Hòa Thượng đã kiên tâm bền chí, chấp tác, làm việc suốt ngày đêm, theo hạnh của Ngài Bách Trượng “nhất nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực” (Một ngày không làm là một ngày không ăn), dấn thân, lao lực hết sức mình để giữ gìn từng tấc đất, trái xoài, trái mít cho Tu Viện, nuôi chúng xuất gia tu học, trùng tu xây dựng lại Tu Viện Nguyên Thiều để tương đối có đủ tiện nghi sinh hoạt với tầm vóc trở thành Trường Trung Cấp Phật Học Nguyên Thiều, Tỉnh Bình Định.
Ngày 19/9/2001 (mồng 3 tháng Tám, Tân Tỵ), Cố Hòa Thượng Đệ Nhất Trụ Trì Tu Viện Nguyên Thiều, HT Thích Đồng Thiện viên tịch, Cố HT Thích Quảng Bửu trở thành vị Đệ Nhị Trụ Trì của Tu Viện và Hòa Thượng là Phó Trụ Trì cùng chung vai gánh vác mọi sinh hoạt Phật Sự tại Tu Viện.
Kể từ năm 2003 cho đến năm 2008, Đức Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giám Viện Tu Viện Nguyên Thiều, về ở tại Tu Viện, Hòa Thượng tiếp tục Sứ Mệnh làm Thị Giả Chính và Trợ Lý, chu toàn rất nhiều công việc Phật Sự Ngài giao cho: chăm sóc sức khỏe, sự an ổn, liên lạc những nhân sự, những nơi cần thiết, hoàn thành các văn bản quan trọng, dẫn các phái đoàn tiếp kiến Ngài, tiếp khách,… nhờ vậy mà Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang có thể trong lúc tuổi già, sức yếu, vẫn vượt qua bao nhiêu gian truân, chướng duyên, thử thách, để chu toàn sứ mệnh lịch sử, với cương vị Tăng Thống của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Vào ngày 01 tháng 05 năm 2016 (nhằm ngày 25 tháng 03 năm Bính Thân), Cố Hòa Thượng Thích Quảng Bửu, Đệ Nhị Trụ Trì Tu Viện Nguyên Thiều viên tịch, Hòa Thượng tiếp tục thừa đương mọi trách nhiệm, Phật sự tại Tu Viện với vai trò là Đệ Tam Trụ Trì.
IV. Trùng tu xây dựng, mở mang cơ sở Tự Viện:
Kể từ năm 1990, Tu Viện Nguyên Thiều liên tục trùng tu xây dựng để có đủ điều kiện hạ tầng cơ sở và tiện nghi sinh hoạt cho Trường Cơ Bản Phật Học Tỉnh Bình Định khai giảng và hoạt động từ năm 1992 tại Tu Viện Nguyên Thiều. Hòa Thượng cùng với nhị vị Hòa Thượng Đệ Nhất, Đệ Nhị Trụ Trì Tu Viện lo làm giếng, xây lớp học, phòng ở, nới rộng nhà Tổ, Trai Đường,… cho Trường Phật Học và Tu Viện. Với tinh thần vô ngã, vị tha, phụng sự không chút so đo, phân biệt, Hòa Thượng lo sửa lại thật là công phu hệ thống đường sá, ánh sáng,… từ Dốc Tháp Bánh Ít vào Tu Viện Nguyên Thiều cho đến Cư Xá Ni Chúng và cảnh quan chung trước tượng Phật Thích Ca lộ thiên của Tu Viện, xứng tầm với một Phật Học Viện, một cảnh quan di tích lịch sử văn hóa, giáo dục kế bên Tháp Bánh Ít, Bình Định.
Ngoài ra, Hòa Thượng là vị Chứng Minh Đạo Sư cho đàn hậu học Nguyên Thiều đến Trụ Trì, Trùng Tu Kiến Thiết và tổ chức sinh hoạt Phật Giáo tại các cơ sở Tự Viện: Chùa Phước Điền, Phước Lộc, Tuy Phước, Bình Định, Chùa Lạc Sơn, địa chỉ: 211 Nguyễn Văn Linh – Hoài Đức – Hoài Nhơn – Bình Định, Chùa Quan Âm tọa lạc tại Phường Nhơn Lý – Tp Quy Nhơn – Bình Định, Chùa Thiện Quang tại Xã Vĩnh Lộc A, Huyện Bình Chánh, Saigon, Việt Nam.
Suốt 9 năm qua, với cương vị Trụ Trì Tu Viện Nguyên Thiều, mặc dù tuổi già sức yếu, chống chọi với Viêm gan giai đoạn cuối và nhiều bệnh khác, Hòa Thượng vẫn luôn sống với hạnh thiểu dục, tri túc, đơn sơ nơi cái Thất trống trải ở ngoài vườn cây, vẫn luôn hoan hỷ, trực tiếp chỉ đạo cho các thợ làm ngoài vườn và chăm sóc cảnh quan Tu Viện, cũng như lo việc độ chúng tu học và xử lý bao nhiêu công việc Phật sự của Tu Viện. Được thừa ân giáo dưỡng và thấm nhuần ý chỉ của Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhị vị Đệ Nhất, Đệ Nhị Trụ Trì Tu Viện Nguyên Thiều và nhiều chư Tôn Thạc Đức khác trong và ngoài Tỉnh Bình Định, Hòa Thượng thể hiện xứng đáng là một bậc xuất trần thượng sỹ, phong thái ung dung tự tại, vững chãi thảnh thơi, dù thân tứ đại suy hao, đa đoan Phật sự và gặp nhiều chướng duyên, thử thách. Đạo phong ấy chỉ có thể toát hiện từ một bậc chân tu, thấm nhuần Đạo Pháp, thấu rõ lẽ sắc không, mặc cho bao nhiêu đổi thay, xoay chuyển của thời thế, hoàn cảnh xung quanh, luôn tinh cần huân tập hướng thượng, trau giồi qua bao nhiêu thời kỳ lịch sử gian truân, với Bồ Đề Tâm, một lòng trung trinh với Đạo, gồm thâu cả Bi – Trí – Dũng: “Phú quý không mê hoặc, nghèo khổ không chuyển dời, vũ lực không khuất phục”.
Vào lúc 5h sáng ngày 11/1/2025 (ngày 12 tháng Chạp năm Giáp Thìn), duyên trần đã mãn, Hòa Thượng trút bỏ báo thân, thâu thần thị tịch tại Tu Viện Nguyên Thiều, Bình Định, Việt Nam, trụ thế 66 năm, hạ lạp: 44.
Hòa Thượng tuy không còn hiện diện với vóc dáng hình hài đó nữa nhưng Đạo phong thoát tục, chí nguyện sắt son làm tốt Đạo, đẹp Đời, gương thầm lặng hy hiến, tận tụy dấn thân, phụng sự trọn đời của Hòa Thượng mãi là tấm gương sáng ngời cho tứ chúng và đàn hậu học noi theo.
Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế, Nguyên Thiều Tu Viện Đệ Tam Trụ Trì. Húy thượng Thị hạ Anh, tự Minh Tuấn, hiệu Viên Minh Hòa Thượng Ân Sư Giác Linh thùy từ chứng giám
Ngày 11/01/2025
Môn Đồ Pháp Quyến cung soạn
CẢM NIỆM CỦA MÔN ĐỒ PHÁP QUYẾN
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngưỡng bạch chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni,
Kính thưa quý vị quan khách cùng chư thiện nam, tín nữ Phật tử,
Chỉ còn vài phút nữa thôi là đến giờ Di Quan, đưa Kim Quan Hòa Thượng Ân Sư của chúng con vào miền đất lạnh. Trong những thời khắc thiêng liêng còn lại này, kính mong Chư Tôn Đức và đại chúng cho phép chúng con, hàng hậu học của Tu Viện Nguyên Thiều, đối trước Kim Quan và báo thân HT Ân Sư của chúng con, được phép đê đầu đảnh lễ, mạo muội bộc bạch đôi điều về cảm niệm của Môn Đồ Pháp Quyến chúng con đối với bậc Thầy thân kính.
Ngưỡng bạch Giác Linh Thầy,
Cho phép chúng con được gọi Cố HT ÂN SƯ bằng tiếng “Thầy” với đầy tình thân thương, lòng kính ngưỡng, tri ân vô hạn đối với một bậc Tôn Sư. Chúng con thuộc lớp đầu xuất gia tại Tu Viện Nguyên Thiều, thế hệ sau năm 1975, khi Nguyên Thiều bắt đầu phục hồi sinh hoạt, sau khoảng 15 năm tình hình kinh tế cuộc sống khó khăn chung của đất nước (1975-1990). Vào thời điểm này, Tu Viện đang lo trùng tu, sửa sang để có đủ tiện nghi về mọi mặt cho Trường Cơ Bản Phật Học Bình Định khai giảng vào năm 1992. Thầy là người trực tiếp chỉ đạo, xem xét các công trình xây dựng, từ giếng nước, hồ nước cho đến phòng ở, lớp học, đường đi, tượng Quan Âm lộ thiên, tượng La Hán, hệ thống đường sá, trang bị ánh sáng từ trong ra ngoài…. Chúng con còn nhớ Thầy gần gũi bàn thảo, đưa ra nhiều ý chỉ và sáng kiến cho các thợ “4 Hùng”, anh “5 Công”, anh Giản, hướng dẫn cho Anh Thư, Dũng,… làm việc. Chúng con thật nể phục Thầy, vì chúng con cứ nghĩ tu sỹ là chuyên môn việc tụng Kinh niệm Phật, chứ đâu có rành về công trình xây dựng và mọi công việc chấp tác, tháo vát, sáng kiến, chỉ đạo như Thầy.
Cái thuở ban đầu ấy, chúng con chỉ là những người sơ cơ xuất gia, tập khí trần gian quá nhiều, có nhiều vụng dại, cử chỉ sinh hoạt theo thói quen ngoài đời. Thầy liên tục chỉ thẳng vào những lỗi lầm của chúng con. Nhiều lúc chúng con cũng buồn, tự ái, e ngại và muốn né tránh Thầy, nhưng sau này dần dần chúng con hiểu: “Dạy dỗ mà không nghiêm là lỗi của Thầy”. Đối với tập nhiễm thế gian nặng nề như vậy cần có những liều thuốc đủ mạnh mới hóa giải được. Tu tập là quá trinh thay đổi, chuyến hóa cho tốt hơn, cho ngày càng tương ưng khế hợp với nếp sống Đạo, đầy đủ uy nghi, cử chỉ, phẩm hạnh Thiền môn.
Không phải Thầy chỉ năng động và tháo vát lúc trùng tu Tự Viện đó thôi, dần dần chúng con được biết, suốt 14 năm trước đó, 1976-1990, Thầy đã đồng cam cộng khổ cùng với 2 Vị: Đệ Nhất và Đệ Nhị Trụ Trì Tu Viện Nguyên Thiều, trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn chung của đất nước, nhất là ở vùng nông thôn. Kinh tế chùa hầu như là tự túc, Quý Thầy phải đi làm ruộng nương ở bên kia Sông, lo canh giữ máy nước thâu đêm trong các vụ mùa hè, hạn hán, rồi lo gìn giữ thu hoạch xoài mít nơi vườn chùa. Những vị tu sỹ nào mà còn duy trì được hạnh xuất gia các giai đoạn trước và sau năm 1975 thì thật là đáng kính vì đã trài qua biết bao gian lao thử thách, thế mà vẫn trì chí, bám trụ, gìn giữ từng tấc đất cho chùa để tạo điểm tựa, niềm tin, quy ngưỡng, tu học cho quần chúng và lưu truyền đời đời cho các thế hệ sau.
Công việc Phật sự của Thầy thật bận rộn: chỉ đạo công trình xây dựng, chấp tác, tiếp đón các phái đoàn, các thành phần khác nhau, phật tử và khách hành hương đến chùa, đại diện cho Tu Viện đi tham dự Lễ cúng các chùa trong và ngoài Tỉnh BÌnh Định, cho đến các công việc thủ quỹ, ngoại giao và thường xuyên đi thăm Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Trưởng Ban Sáng Lập và là Giám Viện của Tu Viện Nguyên Thiều và trợ giúp làm những việc cho Ngài nữa.
Tuy vậy, Thầy vẫn tận dụng thời gian rảnh để tự học, nhờ vậy mà Thầy quảng bác, đa văn, có năng khiếu văn chương, thơ phú, giỏi Hán Ngữ và Anh Ngữ. Thầy đã dành thời gian sắp xếp chỉ dạy, trang bị cho chúng con vốn liếng khả dĩ về: nghi lễ, anh văn và nội điển Phật Pháp để chuẩn bị thi vào và học Trường Cơ Bản Phật Học Bình Định khai giảng năm 1992.
Thầy ưu tư lo cho kinh tế chùa, cho chúng an tâm tu học, nên Thầy đầu tư tâm sức cho việc trồng tiêu, trồng cây cảnh và làm các sản phẩm đồ gỗ gia dụng. Chúng con hiểu ý nghĩa những việc làm đó của Thầy: vừa thêm kinh tế thu nhập cho chùa, vừa đẹp cảnh quan của chùa, tăng thêm niềm hoan hỷ cho Tăng Ni Phật tử đến thăm, hành hương hoặc trú ngụ tu học tại Tu Viện với cành quan đầy sinh khí, đẹp đẽ, vừa tạo công ăn việc làm cho những người có duyên, vừa là cách tu của Thầy, bớt phụ thuộc, thêm gánh nặng cho đàn na, tín thí. Thầy theo hạnh của Bách Trượng Thiền Sư, động thiền, thiền trong cuộc sống, trong sinh hoạt hàng ngày, công phu không chỉ gói gọn ở nơi chánh điện mà mọi lúc, mọi nơi, chánh niệm tỉnh giác, trong mọi sinh hoạt, việc làm lợi lạc cho đại chúng. Làm việc như vậy, Thầy tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, với những người có duyên. Hoằng Pháp không phải chỉ thực hiện ở giảng đường, ở trên bàn giảng sư hay bục giảng, mà trong mọi giao tiếp, sinh hoạt, ngoài sân, ngoài vườn, bàn uống nước, trong mọi cử chỉ làm sao tăng trưởng niềm tin cho những ai có duyên gặp gỡ, cùng sinh hoạt, khiến họ hiểu Đạo Pháp nhiều hơn và dần dần ảnh hưởng trong đời sống của họ theo chiều hướng tích cực, hợp với Bát Chánh Đạo, hướng họ trên con đường đưa đến an vui, giải thoát.
Với vai trò là Trụ Trì của Tu Viện Nguyên Thiều, tuổi cao, bệnh duyên, sức yếu, lẽ ra Thầy phải được nghỉ ngơi, an dưỡng nơi phòng Phương Trượng đầy đủ tiện nghi, thuận tiện nhất, thế nhưng Thầy vẫn tiếp tục với cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày, chủ yếu là ở nơi Thất trống trải ngoài vườn để chỉ bảo công việc, để mọi người dễ tiếp xúc với Thầy.
Vai trò thị hiện của Thầy thật trọn vẹn, xuất gia từ lúc 11 tuổi, chịu nhiều gian truân thử thách trong sinh hoạt cuộc sống trước và sau năm 1975, tha thiết tham học Phật Pháp với môi trường Phật Học Viện Nguyên Thiều, Phổ Tịnh, tham vấn Chư Tôn Thạc Đức rồi tự học cả đời. Thật là: “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, lấy ma quân làm bạn Đạo. Thầy đã làm gương cho chúng con về việc phát và nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm, chí nguyện tu học, không bao giờ lui sụt trước khó khăn, về sự tận tụy làm thị giả, trợ lý cho những bậc Trưởng Thượng như là đối với Cố TLHT Thích Huyền Quang, Thích Đồng Thiện, về sự năng động, khéo léo trong mọi công việc, chứ không phải bo bo gò ép mình thụ động mà là dấn thân phụng sự tích cực, về hạnh thiểu dục tri túc, sống đơn sơ nơi ngoài vườn, ngoài Trại, không ham du lịch dạo chơi đây đó, gắn bó với những người khó khổ, với thiên nhiên, giản dị nhưng thanh cao, bình thường nhưng kỳ vĩ. Những câu chuyện bên bàn trà của Thầy là những bài học Đạo lý ý nghĩa sâu sắc vô cùng, những lời khai thị của Thầy giúp hướng sáng và gỡ rối cho chúng con khi cần nhất, hình ảnh gần gũi và nu cười của Thầy tiếp cho chúng con năng lực vô biên, sự nhẹ nhàng coi như không có gì đối với cơn bệnh của Thầy khiến chúng con thực tập sống tự tại hơn trước nghiệp chướng, trầm luân sanh tử,…
Thầy trụ tại thế vừa đủ để lo trợ giúp hiếu kính và hậu sự của Tam Vị Tôn Sư của Tu Viện Nguyên Thiều, lưu lại thêm chín năm để tiếp tục truyền trao kinh nghiệm, chỉ bày cho chúng con đủ hiểu đâu là cốt lõi, căn bản, đâu là cái chất quý giá nhất cần gìn giữ của người tu, dìu dắt tập sự và chờ đợi chúng con ngày càng trưởng thành hơn, từng bước tự đứng trên đôi chân của mình, đủ sức lo liệu mọi công việc Phật sự của Tu Viện. Khi cảm thấy nhân duyên vừa đủ, Thầy thuận duyên buông xả.
Ngày 12 tháng Chạp năm Giáp Thìn đánh dấu sự mất mát lớn lao đối với chúng con, khi hình ảnh Thân Giáo của Thầy, người hội tụ tinh hoa, kế thừa và truyền đạt tinh thần, ý chỉ của Chư Tôn Đức từ thuở sáng lập Tu Viện Nguyên Thiều đến nay không còn nữa. Với chúng con, kể từ nay, Tứ Trụ Nguyên Thiều đã mất. Vẫn biết vạn pháp trên cõi đời này là tạm bợ, theo quy luật vô thường sanh diệt. nhưng chúng con làm sao tránh khỏi ngậm ngùi, bi cảm khi phải bái biệt một người Thầy thương kính cả đời tận tụy dâng hiến cho Đạo Pháp cho Tu Viện, cho sự an lành của đại chúng. Kể từ nay chúng con tìm đâu được nữa ánh mắt thân thương, nụ cười từ hòa, lời chỉ bảo ân cần, lòng quan tâm sâu sắc của người Thầy, của người đi trước đối với đàn hậu học Tu Viện Nguyên Thiều. Rồi đây, từng kẽ lá chòm cây vắng bàn tay chăm sóc, từng sỏi đá Nguyên Thiều còn khẽ gọi bước chân ai, bàn trà chơ vơ nơi mái lạnh, nước Sông Côn rì rào muôn thuở kể lại sự tích xưa, Tháp Bánh Ít sừng sững ngàn năm vẫn lồng lộng hình bóng Thầy.
Người đi dấu vết chưa nhòa. Người đã ra đi nhưng người còn ở lại, hoa Đàm tuy mất vẫn còn Hương. Những ý chỉ, những tâm nguyện, những lời dạy bảo của Thầy, tất cả Thân Giáo, Khẩu Giáo, Ý Giáo của Thầy vẫn mãi sống trong tâm khảm của chúng con, những kỷ niệm quý giá đã trở thành nguồn thương lẽ sống, là niềm tin và động lực cho chúng con để tiếp tục bước Chân quý Thầy đã đi qua, tiếp tục thừa đương gánh vách sứ mệnh truyền đăng tục diệm, kế vãng khai lai, cùng góp sức cho Thiền môn hưng thịnh, tứ chúng an hòa, hoằng dương Chánh Pháp, lợi lạc quần sanh, đem hết sức mình dấn thân phụng sự làm tốt Đạo đẹp Đời.
Giờ này đây, dù chúng con có vay mượn bao nhiêu ngôn ngữ văn chương cũng không đủ mô tả được công Hạnh của Thầy và ân tình Thầy đã dành cho chúng con. Với tất cả tâm tình niệm Ân sâu sắc, cảm ứng Đạo giao, cho phép chúng con một lần này nữa đây đảnh lễ tiễn biệt Thầy trước lúc Di Quan. Ngưỡng nguyện hồng ân Chư Phật Bồ Tát mười phương thùy từ gia hộ, Thầy xả bỏ báo thân mà chứng pháp thân, rời quán trọ trần gian mà trở về Tịnh Cảnh. Ngưỡng nguyện Giác Linh Thầy cảm thông thâu chấp độ trì cho chúng con chu toàn Phật sự và sớm hội nhập Ta Bà, tiếp tục chèo thuyền Bát Nhã, ứng tiếp độ sanh, đưa khách mê trở về bến Giác.
Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế, Nguyên Thiều Tu Viện Đệ Tam Trụ Trì. Húy thượng Thị hạ Anh, tự Minh Tuấn, hiệu Viên Minh Hòa Thượng Ân Sư Giác Linh thùy từ chứng giám
Môn Đồ Pháp Quyến
CUNG VĂN AI TIỄN
CỐ HOÀ THƯỢNG thượng THỊ hạ ANH tự MINH TUẤN hiệu VIÊN MINH
ĐỆ TAM TRỤ TRÌ NGUYÊN THIỀU TU VIỆN TÂN VIÊN TỊCH
Kính bạch Giác Linh Hoà thượng tân viên tịch!
Chúng con cung kính nghe rằng:
Các pháp hữu vi có sanh ắt có diệt
Nên lẽ vô thường có đến phải có đi.
Đức Thế Tôn năm xưa giáng thế nơi vườn Lâm-Tỳ-Ni
Và kết thúc cuộc du hành tại Câu-thi-na xứ.
Bồ-Đề-Đạt-Ma cũng có ngày Tây khứ
Lục Tổ Huệ Năng đâu ở mãi Nam bang.
Cho nên,
Trên thánh dưới phàm,
thảy đều như thế.
Kẻ ngu người tuệ,
nào có khác nhau.
Chỉ là:
Người trí biết rõ bốn đại là nỗi khổ bì lao,
do đó không đem tâm chấp trước.
Thế nhưng:
Kẻ mê đâu hay năm ấm như phân dơ ố trược,
vì vậy mãi ôm lòng luyến lưu.
Thiết nghĩ, Thầy là bậc:
Trong đạo cao siêu
Ngoài đời quảng đại,
Việc làm vô ngại
Cử chỉ khôn lường.
Do đó:
Đường sanh tử ắt hẳn người đã tỏ tường
Và lẽ chân thật chắc ngài đà thấu triệt.
Thế nhưng:
Khi ngài ra đi chúng con làm sao tránh được niềm luyến tiếc
Dù biết Thầy đã nhẹ gót về Tây.
Làm sao chúng con có thể quên đi những tháng ngày
Được ơn Thầy dưỡng dục.
Ô hô!
Nhớ Giác linh xưa!
Đất Phú Yên thác chất
Trời Bình Định xuất trần
Duyên lành quy y với đại lão Như An thượng nhân
Phước lớn học tập miền đất thánh Nguyên Thiều tu viện.
Thuở nhỏ sớm hôm được cận kề trưởng lão Đồng Thiện
Lớn lên sáng tối lại lui tới Quảng Bửu đại sư.
Do vậy,
Mới đôi mươi đã làu thông ba tạng kinh thư
Và vài hạ đã thấu tròn một tâm chân thật.
Cơ huyền diệu mật,
Tích điển bí chương.
Đông tây nội ngoại lãm tường
Bắc nam cổ kim thông đạt.
Tính tình chất phác
Ứng xử thông minh.
Xứng danh con cháu pháp vương
Đáng bậc túc tôn đại sĩ.
Ngày ngày người cuốc đất, trồng rau nhưng không bao giờ quên trau dồi kim cương trí
Đêm đêm ngài tụng kinh, gõ mõ và lúc nào cũng nguyện ấp ủ đại bi tâm.
Quả thực, Thầy là bậc:
Tinh tú thiền lâm,
Côn bằng hải chúng,
Pháp môn lương đống,
Thạch trụ tông phong.
Là chỗ bốn chúng đệ tử kính mong
Là nơi hai hàng tục tăng trông cậy.
Chúng con cứ ngỡ!
Gió vô thường còn xa lắm vậy
Nào ngờ sự cách biệt đã đến hôm nay.
Hạc vàng sải cánh tung bay
Về nơi bảo sở trời Tây nhẹ nhàng.
Đau đớn lắm thay!
Trượng thất cô liêu từ nay vắng người cốc chủ
Thiền đường thanh tịch sau này thiếu bậc chân tu.
Bóng tùng mịt mịt sương mù,
Gốc mai man man gió lạnh.
Tháp Bạc đổ bóng xuống dòng sông hiu quạnh
Cội sứ in mình trên đám cỏ rong rêu.
Chuông Nguyên Thiều chẳng đánh mà kêu
Trống tu viện không khua lại động.
Chín hồi lôi âm vang vọng
Một thoáng hư mộng mơ màng.
Môn đồ hiếu quyến bàng hoàng
Pháp phái sơn môn luyến tiếc.
Đỉnh Thứu mây che trăng khuyết
Non Kê sương phủ y mờ
Suối Tào Khê nước chảy hững hờ
Vườn Thiếu Thất đèn thiền leo loét.
Ôi thôi!
Giờ này Thầy đã nghìn thu vĩnh biệt
Phút ấy con cháu ngàn dạ nhớ mong.
Từ nay nguyện:
Học theo gương sáng bậc tăng nông
Và nối gót ý chí người thượng sỹ.
Trên đài cao ngan ngát khói hương ngưỡng mong Giác linh thuỳ từ tỏ ý
Dưới chiếu cỏ sụt sùi ngấn lệ tâm thành đệ tử bày dạ tiếc thương.
Người về nước Tây phương
Không quên đi nguyện cũ
Trở về bổn xứ
Tiếp độ quần sanh
Qua đến Hoá thành
Thẳng về bảo sở.
Để đàm hoa lại tái thế
Và Phật nhựt được trùng huy.
Làm cho dòng chảy đạo pháp tiếp tục trường kỳ
Khiến cho ánh sáng tông phong luôn luôn mở rộng.
Mấy lời chúc tụng
Tôn giả chứng minh
Đệ tử nghiêng mình
Cúi đầu bái hiến.
Nam mô Lâm Tế Tông Tứ Thập Nhị Thế, Chúc Thánh Pháp Phái, Nguyên Thiều Tu Viện Đường Thượng Đệ Tam Đăng huý thượng Thị hạ Anh tự Minh Tuấn hiệu Viên Minh Hoà Thượng Giác Linh Liên Toạ Thuỳ Từ Chiếu Giám.
Ngu tử: Thích Đồng Thuận
Tâm Thành Khể Thủ.
HẠNH NGUYỆN VIÊN MINH
Kính niệm tưởng Giác Linh cố HT Đệ Tam Trụ Trì, Tu Viện Nguyên Thiều,
Những ngày buốt lạnh cuối mùa Đông
Người con xa xứ mãi hoài mong
Về thăm đất Tổ, nôi yêu dấu
Sum họp mùa Xuân, sưởi ấm lòng.
Hôm nay điện thoại mấy lần reo
Đột ngột báo tin tại Nguyên Thiều
Hòa Thượng Trụ Trì vừa viên tịch
Cảm xúc tràn về biết bao nhiêu!…
Con nhớ ngày xưa mới xuất gia
Tình nghĩa Đệ – Huynh thật đậm đà
Tận tâm nhắc nhở từng cử chỉ
Hun đúc, rèn nên chí cao xa…
Thầy dạy Nghi Lễ với Anh Văn
Khuyên đàn hậu học phải siêng năng
Giúp ôn Phật Pháp vào Cơ Bản
Trang bị kế thừa những danh Tăng.
Trước kia kinh tế, việc ruộng nương
Quý Thầy đội nắng với dầm sương
Máy nổ bị hư, Thầy lo sửa
Hao gầy, còn lại chỉ bộ xương.
Bờ rào, bờ giậu, lấn đất đai
Họ vào trộm phá mít với xoài
Thầy trò đối diện bao nghịch cảnh
Bám trụ, giữ Chùa, chí không phai.
Cả ngày chỉ đạo họ dựng xây
Nào là đào giếng với trồng cây
Chăm sóc cảnh quan cho tự viện
Gồm đủ chức năng: Thợ với Thầy.
Mắt mờ vẫn thấy rõ tương lai
Chân yếu, hơi run, bước tới hoài
Sao không yên nghỉ nơi yên ấm?
Thân bệnh không màng, chẳng dừng tay?!
Thầy quên tuổi tác sắp Bảy Mươi
Sớm chiều tiếp khách vẫn cười tươi
Mặc đời đen bạc, tâm chí lớn
Lặng lẽ dấn thân, trọn kiếp Người.
Gắn bó Nguyên Thiều chí thiết tha
Vượt bao cám dỗ của tà ma
Nghịch duyên, thử thách không lay chuyển
Xuất trần, thượng sỹ, hạnh xuất gia.
Như voi ra trận chịu cung tên
Lịch sử, khúc quanh, chí vững bền
Người vốn gồm thâu: Bi – Trí – Dũng
Mài giũa, trau dồi, thế mới nên!
Người đã đi rồi, thật thế sao?!
Kỷ niệm còn đây, những năm nào
Giờ đang sống lại trong tâm trí
Thương nhớ đong đầy, dạ xuyến xao…
Nguyên Thiều vang vọng mấy hồi chuông
Chòm liễu đìu hiu, ủ rũ buồn
Duyên trần nương tạm, thôi gửi lại
Giã từ cuộc mộng, thế là BUÔNG!
Sông Côn muôn thuở sóng xôn xao
Kẽ lá cành cây vẫn xạc xào
Bóng Người lồng lộng nơi Tháp Cổ
Lung linh, sáng mãi, một vì sao…
11/1/2025, ngày nhập Kim Quan Cố HT Đệ Tam Trụ Trì
Hướng về Tu Viện Nguyên Thiều
Nén hương tưởng niệm:
Thích Đồng Trí (Minh Tuệ)
懷 念 恩 師
明 如 彗 日 照 娑 婆
俊 傑 離 塵 志 出 家
是 珠 妙 玉 圓 一 璧
瑛 珞 奇 珍 會 精 花
元 流 骨 格 培 生 氣
韶 光 素 質 潤 山 河
和 南 上 士 塵 緣 滿
上 登 九 品 御 蓮 花
Dịch Âm
HOÀI NIỆM ÂN SƯ
MINH như Tuệ Nhựt chiếu Ta Bà
TUẤN Kiệt ly trần, chí xuất gia
THỊ Châu diệu Ngọc viên nhất bích
ANH Lạc kỳ Trân hội tinh hoa
NGUYÊN lưu cốt cách bồi sinh khí
THIỀU quang tố chất nhuận sơn hà
HÒA nam Thượng Sỹ trần duyên mãn
THƯỢNG đăng cửu phẩm, ngự Liên Hoa.
Dịch thơ:
MINH như Trời sáng rọi Ta Bà
TUẤN kiệt xa Trần, chí xuất gia
THỊ hiện Ngọc Châu tròn một vẻ
ANH Lạc Trân báu đủ tinh hoa
NGUYÊN toàn Cốt Cách thêm sinh khí
THIỀU quang Tánh Chất rạng sơn hà
HÒA nam bái biệt Người duyên mãn
THƯỢNG đăng chín phẩm, ngự Liên Hoa.
Hướng về Tu Viện Nguyên Thiều
Ngày nhập Kim Quan Hòa Thượng
12 tháng Chạp, Giáp Thìn (11/01/2025)
Thích Đồng Trí (Minh Tuệ) khể thủ
