SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
VÀ ĐỨC QUÁN THẾ ÂM
A- ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
I. DANH NGHĨA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Đức Phật A Di Đà là một Đức Phật làm giáo chủ ở cõi Tây phương Cực Lạc. Tên Ngài có ba nghĩa:
- Vô lượng quang: Nghĩa là hào quang trí huệ của Ngài vô lượng vô biên chiếu khắp các thế giới.
- Vô lượng thọ: Nghĩa là thọ mạng Ngài sống lâu không lường kể.
- Vô lượng công đức: Là Đức Phật A Di Đà làm những công đức to lớn không thể kể xiết.
II. SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Theo Kinh Đại A Di Đà, về thời Đức Phật Thế Tự Tại Vương ra đời, có một vị quốc vương tên Kiều-thi-ca. Vua Kiều-thi-ca nghe Đức Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi vua xuất gia làm vị Tỳ- kheo hiệu là Pháp Tạng. Một hôm Ngài đảnh lễ Phật, quỳ xuống chắp tay cầu Phật chứng minh và phát 48 lời nguyện. Do nguyện lực ấy sau này thành Đức Phật A Di Đà.
Lại theo Kinh Bi Hoa, về đời vua Chuyển luân Thánh vương tên Vô Tránh Niệm có vị đại thần Bảo Hải. Vị này có người con tên là Bảo Tạng tướng tốt dị thường, sau xuất gia thành Phật hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Một hôm vua Vô Tránh Niệm nghe Phật thuyết pháp liền phát tâm muốn cúng dường các món ăn uống y phục cho Đức Phật và đại chúng luôn luôn trong ba tháng. Vị Đại thần Bảo Hải khuyên vua nên phát tâm Bồ-đề cầu đạo Vô thượng. Vua liền nguyện sau này thành Phật sẽ làm giáo chủ một cảnh giới cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Vua Vô Tránh Niệm phát nguyện xong, Đức Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho vua sau này sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà và cõi nước của Ngài sẽ là cõi Cực Lạc Tây phương. Vị Đại thần Bảo Hải sau này cũng thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
III. HẠNH NGUYỆN ĐỨC PHẬT DI ĐÀ
Đức Phật A Di Đà là gương sáng của hạnh Thanh tịnh vì thân Ngài chói ngời ánh hào quang thanh tịnh sáng suốt, cõi Tịnh Độ của Ngài chói ngời các món trân bảo thanh tịnh sáng suốt và các chúng sanh ở trên cõi Cực Lạc hết thảy đều thanh tịnh sáng suốt. Đức Phật A Di Đà có phát 48 lời nguyện rộng lớn cứu độ tất cả chúng sanh, trong ấy có lời nguyện tiếp dẫn tất cả chúng sanh nào hướng niệm đến Ngài đều được vãng sanh lên cõi Cực Lạc. Ngài lại có nguyện nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, đến 10 niệm Ngài cũng tiếp dẫn lên cõi Cực Lạc.
IV. LÒNG QUY NGƯỠNG CỦA PHẬT TỬ
Nước Việt Nam phần đông theo tông Tịnh độ nên thờ tượng Đức Phật A Di Đà. Tượng Ngài đứng hoặc ngồi trên tòa sen, tay phải duỗi xuống phóng hào quang, tay trái đè ngang bụng bắt ấn cam lồ. Tại các chùa, Đức Phật A Di Đà thờ chung với Đức Phật Thích Ca (bên phía tay mặt Đức Phật Thích Ca) và Đức Phật Di Lặc, có khi thờ một mình hay Đức Quán Thế Âm bên tay trái và Đức Đại Thế Chí hầu bên mặt Ngài, hai vị này trợ hóa cho Ngài bên cảnh Cực Lạc.
Thường năm đến ngày 17 tháng 11, các Phật tử làm lễ vía của Ngài. Trong khi gần lâm chung và khi đưa đám, hoặc khi cúng lễ thường niệm danh hiệu Ngài là hiệu thanh tịnh trong sạch để trừ những tà niệm, chuyển đổi cảnh đời ô trược thành cảnh giới thanh tịnh sáng suốt như cảnh giới Cực Lạc.
B- ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
I. Ý NGHĨA TÊN NGÀI
Đức Quán Thế Âm là một vị Bồ-tát thường hay quán xét tiếng đau khổ chúng sanh để cứu giúp nên gọi Ngài là Quán Thế Âm; lại do Ngài quán sát nghe mà giác ngộ tự tại cứu độ chúng sanh nên cũng gọi là Ngài Quán Tự Tại. Trong khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, Đức Quán Thế Âm thường trợ hóa cho Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, và thường hầu bên tay trái Đức Phật A Di Đà.
II. LỊCH SỬ
Kinh Bi Hoa chép rằng: Về thời quá khứ. ngài Quán Thế Âm làm Thái tử con vua Vô Tránh Niệm, đồng thời có Đức Bảo Tạng Như Lai ra đời giáo hóa chúng sanh. Vua nghe Đức Phật thuyết pháp hiểu đặng đạo lý, phát tâm Bồ-đề mong sau thành Phật đặng cứu độ chúng sanh. Vua cúng dường Đức Phật và Tăng chúng luôn trong ba tháng. Thái tử cũng cúng dường và cũng tu như vậy. Vua Vô Tránh Niệm tu hành tinh tấn, đến khi công hạnh vẹn toàn thì thành Phật ở cõi Cực Lạc phương Tây hiệu là A Di Đà, Thái tử cũng công hạnh trọn đủ, cũng sanh về cõi ấy thành Bồ- tát hiệu là Quán Thế Âm, đặng cùng với Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sanh về cõi Phật.
III. HẠNH NGUYỆN CỦA NGÀI
Trong Kinh Phổ Môn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói về hạnh nguyện của Đức Quán Thế Âm Bồ-tát là cứu độ chúng sanh thoát khỏi ba tánh tham, sân, si, nếu chúng sanh niệm đến danh hiệu Ngài. Đức Quán Thế Âm lại thường hiện thân vào tất cả từng lớp chúng sanh để cứu chúng sanh thoát khỏi các nạn tai ách. Hạnh nguyện của Đức Quán Thế Âm là tượng trưng cho hạnh Từ Bi và tất cả chúng sanh thường niệm danh hiệu Ngài là Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ-tát, hay Nam mô Đại từ bi phụ Linh cảm Quán Thế Âm Bồ-tát.
IV. LÒNG QUY NGƯỠNG CỦA PHẬT TỬ
Vì Đức Quán Thế Âm có nhân duyên, cơ cảm với chúng sanh ở cõi Diêm-phù-đề này, nên Ngài rất được tôn thờ. Một khi có tai nạn gì xảy ra, mọi người liền niệm danh hiệu Ngài để nhờ Ngài cứu độ. Trong những thời kỳ binh đao tai nạn, mọi người thường hay ấn tống tượng Ngài để thờ hoặc để đeo. Người ta thường vẽ tượng Ngài bằng hình dáng phụ nữ tượng trưng cho lòng thương không bờ bến của Ngài, bà mẹ hiền của chúng ta. Ngài cầm một cành dương liễu để tiếp dẫn chúng sanh và bình nước cam lồ để rưới tắt phiền não, đem lại nước trong mát cho mọi loài. Người ta vẽ Ngài đi trên hoa sen giữa bể cả ba đào, tỏ rằng trong bể khổ sóng gió đức Quán Thế Âm bao giờ cũng gần gũi chúng sanh, cứu vớt chúng sanh bằng hoa sen Từ bi ngát hương chơn lý. Có khi vẽ Ngài ngồi ở pháp tọa trong rừng trúc, hình dung Ngài ở núi Phổ Đà thường nhập định, đồng thời tùy duyên thuyết pháp độ chúng sanh; tuy tùy duyên ứng thân thuyết pháp mà vẫn không rời pháp tọa tự giác vậy. Hình ảnh này và hình ảnh có Thiện Tài, Long Nữ đứng hầu là tượng trưng cho phạm hạnh đồng chơn của Đức Quán Thế Âm, nghĩa là hoa sen trong sạch giữa bùn lầy ô trược như tâm hồn tươi trẻ trước cảnh sắc mê hoặc. Trong năm có ba ngày vía lớn của Ngài là ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, 19 tháng Chín.
Người Phật tử chơn chánh niệm Đức Quán Thế Âm là luôn luôn thể theo hạnh Từ bi của Ngài mà độ cho tất cả chúng sanh đau khổ, làm tất cả hạnh lành, dầu phải gặp những gian nan, đau khổ.
Người ăn thịt đoạn mất giống từ bi.
Không ăn thịt thời không có người sát hại chúng sanh.
KINH LĂNG GIÀ