Thành phần nguyên thủy của Tăng đoàn là các Tỷ-kheo đã đắc giới Cụ túc. Khi nữ giới được phép gia nhập Tăng đoàn, đắc giới cụ túc như Pháp trên nền tảng Bát kỉnh pháp[1], kể từ đó Tỷ-kheo ni chính thức trở thành thành phần chính thức của Tăng, nhưng Luật có những quy định riêng biệt giữa Tăng và Ni.
Luật tạng đưa ra một trong những điều kiện chính yếu để đắc giới Tỷ-kheo ni đó là đến giữa hai bộ Tăng để cầu thọ giới, tức là sau khi Sa-di ni đã thọ học giới đủ hai năm (Thức-xoa-ma-na), thanh tịnh, được phép thọ cụ túc trước hai bộ Tăng gồm 10 vị Tỷ kheo và 10 vị Tỷ-kheo ni; nơi biên địa thì mỗi bộ Tăng gồm 5 vị[2]. Việc truyền thọ được chia làm hai giai đoạn: Bản bộ Yết-ma (tác pháp Yết-ma giữa Ni bộ) và Chánh pháp Yết-ma (tác pháp Yết-ma giữa Tăng Tỷ-kheo).
Về phần Bản bộ Yết-ma, chỉ gồm tám mục trong quá trình Yết-ma[3]: 1, Thỉnh Hòa thượng ni; 2, Yết-ma sai giáo thọ ni; 3, Giáo thọ ni hướng dẫn giới tử về các già nạn; 4, Đơn bạch gọi giới tử đến trước Tăng; 5, Giới tử bạch Tăng xin giới; 6, Đơn bạch chính thức hỏi các già nạn trước Tăng; 7, Chính thức hỏi các già nạn; 8, Bạch tứ Yết-ma trao giới cụ túc. (Tăng ở đây hiểu là Ni bộ)
Sau khi Ni bộ bạch tứ Yết-ma, thì dứt phần bản bộ Yết-ma. Ngay hôm đó, Ni bộ dẫn giới tử sang giữa đại Tăng Tỷ-kheo để xin tác Chánh pháp Yết-ma, không được cách đêm. Các tiết mục khác như nói tám Ba-la-di, các pháp sở y, tám kỉnh pháp…phải do Tăng trong phần chánh pháp Yết-ma này.
Túc số Tăng Tỷ-kheo ở đây là 10 vị, trong đó chỉ cử ra một người làm vị Yết-ma, các vị khác đều làm tôn chứng chứ không có Hòa thượng truyền giới.
Sau khi dẫn giới tử đến trước Tăng Tỷ-kheo xong, theo Luật Tứ phần, Tăng Tỷ-kheo sẽ hỏi Giới tử ni có thanh tịnh không? Tiếp đến hỏi vị Giáo thọ ni xem giới tử này có thanh tịnh không? Đến ngang đây, phận sự Ni bộ xem như tạm xong. Các giới sư Ni phải ra khỏi giới trường, để Tăng Tỷ-kheo tiến hành tác pháp Yết-ma, vì Tăng và Ni không được chung một giới trường mà Yết-ma, Yết-ma như vậy là phi pháp. Vấn đề hướng dẫn giới tử Ni tiến hành các thủ tục cầu thỉnh được mạch lạc thì giới đàn hiện nay đã có vị dẫn thỉnh. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà hiện nay một số giới đàn lại để giới sư Ni ngồi chung trong giới trường, ở trên thì Tăng Tỷ-kheo vẫn tác pháp Yết-ma? Thậm chí có một số giới đàn thuộc một hệ thống Tăng Ni có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới, dưới sự hướng dẫn tu tập của một vị Thầy được xem là có thẩm quyền về Phật giáo hiện nay, cũng rất xem nhẹ việc này, trong một giới đàn truyền thọ giới Cụ túc, ngay trong giới trường mà Tăng Ni ngồi chung, và làm chung một Yết-ma. Yết-ma như vậy nếu căn cứ theo Luật thì được xem là phi pháp. Yết-ma phi pháp thì liệu rằng giới tử có đắc giới hay không?
Một vấn đề khác ở đây, sau khi Tăng Tỷ-kheo bạch tứ Yết-ma xong, lúc đó giới thể Tỷ-kheo ni mới thành tựu, bấy giờ mới chính thức trở thành tân Tỷ-kheo ni. Giới thể thành tựu, Tăng mới bắt đầu nói về giới tướng, gồm tám ba-la-di, các pháp sở y, tám kỉnh pháp, và các vấn đề y bát cũng được tiến hành ở đây. Tức là giới thể đã thành tựu thì mới lãnh thọ giới tướng. Nhưng hiện nay một số giới đàn lại làm khác với điều này. Tức là họ truyền luôn tám ba-la-di, các sở y, và y bát, tọa cụ…ngay tại phần Bản bộ Yết-ma.
Người viết từng thắc mắc điều này khi thấy một giới đàn làm như vậy, người có chức trách trong giới đàn đó cho biết, và đem luôn một cuốn sách ra làm căn cứ, vị ấy cho rằng đang tiến hành theo “Nghi thức truyền giới” do Hòa thượng Đỗng Minh tập thành[4]. Về tìm đọc cuốn sách này, người viết thấy rằng, cuốn này được tái bản nhân đại tường của Hòa Thượng, do ban phiên dịch đứng tên. Từ đó người viết đặt ra thắc mắc là cuốn này có hay không việc thứ tự tiến hành tác pháp ít nhiều có sự xáo trộn, do chủ quan hoặc sơ suất nào đó trong việc biên tập tái bản lần này? Bởi vì về thẩm quyền Giới luật của Hòa Thượng thì không cần bàn cãi, Ngài là bậc Thầy đi đầu trong công cuộc hoằng truyền Luật học, tuy nhiên văn trong cuốn này có nhiều chỗ lộn xộn mà lúc này Ngài đã không còn để kiểm duyệt.
Ví dụ như giới tử Ni thọ y ở giữa bản bộ Yết-ma, xưng “con là Tỷ-kheo ni….”, (vì ở đây cho rằng Ni bộ bạch tứ Yết-ma thì giới tử đã đắc giới chăng?). Tuy nhiên, khi đến giữa Tăng tỷ-kheo thì lại xưng “con là Thức-xoa-ma-na…”. Tức mới vừa bên Ni thì giới tử xưng bản thân là Tỷ-kheo ni, một lúc sau sang giữa Tỷ-kheo Tăng thì lại xưng bản thân là Thức-xoa-ma-na? Và mặc dù xưng là Thức-xoa-ma-na nhưng trên thân giới tử đã khoác mặc y Tỷ-kheo ni?[5]
Một ví dụ khác, phần giáo thọ ni dẫn giới tử ni vào, sách viết: “Giáo thọ ni đến trước Tăng, lạy 1 lạy, quỳ chắp tay bạch: ‘Kính bạch chư Đại đức Ni lắng nghe… Bạch như vậy, tác bạch có thành không?’ Tôn chứng ni đáp: Thành[6]”. Đoạn này có vấn đề như sau: Ở đây vị Giáo thọ ni chỉ làm nhiệm vụ thưa giữa Ni bộ việc có giới tử cầu thọ giới cụ túc, chứ không phải là Yết-ma nên không thể nói thành Đơn bạch Yết-ma như vậy được. Sau khi vị Giáo thọ ra giữa Ni bộ thưa xong, Ni bộ chấp thuận cho giới tử vào thì vị Giáo thọ về ngồi lại vị trí của mình, gọi giới tử vào, lúc đó mới bắt đầu tác pháp Yết-ma. Giả sử như xem việc Giáo thọ ni thưa giữa Ni bộ là một Đơn bạch Yết-ma như trong sách đề cập, thì việc Yết-ma cũng thành phi pháp, bởi vì vị Giáo thọ quỳ, còn các vị tôn chứng đang ngồi. Trong số các vị được kể vào túc số tác pháp Yết-ma cùng hiện diện trong một giới trường thì việc người ngồi, người quỳ để Yết-ma thì Yết-ma đó sẽ phi pháp. Và còn khá nhiều vấn đề ở đây mà khi đối chiếu vào quảng Luật sẽ thấy sự có sai khác.
Tóm lại, giới thể Tỷ-kheo ni chỉ thành tựu khi Bạch tứ Yết-ma ở phần Chánh Pháp Yết-ma đã hoàn tất, chứ không phải giới thể Tỷ-kheo ni thành tựu ở Bạch tứ Yết-ma giữa phần Bản bộ Yết-ma. Nếu giới thể chưa thành tựu thì không có việc giới tướng được truyền trao, tức là chưa chính thức trở thành Tỷ-kheo ni thì không được đắp y Tỷ-kheo ni và tự xưng bản thân là Tỷ-kheo ni với giới sư ni? Và nếu như đã đắp y Tỷ-kheo ni trên người rồi thì sao lúc sang giữa Tỷ-kheo Tăng lại xưng “con là Thức-xoa-ma-na…”?
Rất nhiều giới đàn hiện nay sử dụng một cách khá rập khuôn theo một nghi thức nào đó. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm. Thiết nghĩ, đã đến lúc hội đồng Giám Luật và các vị có đủ thẩm quyền về mặt Luật tạng cùng nhau ngồi lại và thống nhất về một nghi thức truyền giới, ít nhất trong phạm vi một Giáo hội, để cho Pháp Phật được truyền thừa một cách có hệ thống hơn trong thời đại “vàng thật, vàng giả lẫn lộn này”.
“Phương tiện tùy nghi”, tức là tùy điều kiện, hoàn cảnh lúc đó để áp dụng cho phù hợp, thuận tiện. Tuy nhiên “vô thi bất khả”, nếu không có lý do chính đáng thì không thể giản lược một cách qua loa được. Những tình tiết tưởng chừng như nhằm mục đích đơn giản, rút gọn thời gian lúc tiến hành…, nhưng có thể sinh ra nhiều điều không hay về lâu dài. Mà nói theo ngôn ngữ Luật, đó là “bất đắc vi việt”.
[divider style=”normal” top=”20″ bottom=”20″]
[1] Đại, T1428. Tứ phần luật quyển 48.
[2] Tham chiếu: Tứ phần quyển 48; Ngũ phần quyển 29; Ma-ha-tăng-kỳ quyển 36.
[3] Thích Trí Thủ (2011). Yết ma yếu chỉ. Thích Đỗng Minh, & Thích Tuệ Sỹ (đồng biên tập). Nxb. Phương Đông. Tr.192.
[4] Thích Đỗng Minh (tập thành) (2007). Nghi thức truyền giới. Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
[5] Sđd. Phần Giới đàn ni.
[6] Sđd. Tr. 126.