(Ngày xuân kể chuyện ân sư để khuyến lệ tăng chúng)
Thích Đức Niệm
Mỗi năm sau lễ giao thừa rước vía Di lặc, các huynh đệ đảnh lễ mừng tuổi chúc tết thầy. Hình ảnh này khiến cho thầy nhớ lại dĩ vãng cách đây ba bốn mươi năm về trước, lúc đó thầy còn là một học tăng cũng như các huynh đệ ngày hôm nay.
Cứ vào sáng mùng một tết, huynh đệ của thầy y áo chỉnh tề cùng nhau dẫn đến đảnh lễ mừng tuổi các bậc sư trưởng giáo thọ. Trong những bậc sự trưởng phải thành thật mà nói, Hòa Thượng Giám đốc Thích Thiện Hòa là bậc ân sư mà tư duy ngôn hạnh của Ngài đã khắc sâu vào tâm thức và đã âm thầm nhắc nhở thầy trong suốt mấy chục năm hành đạo mãi đến ngày nay. Do đó mỗi năm vào đầu xuân tết, tự nhiên lòng thầy cảm thấy nao nao một niềm thương nhớ đến bậc ân sư giáo dưỡng, đó là Hòa Thượng Giám Đốc Thiện Hòa. Hình ảnh ngôn hạnh từ hòa của Ngài sống lại trong tâm thức thầy như cuốn phim. Hòa Thượng từ giã cõi đời vào ngày mùng một tết, kết thúc báo thân để thể nhập pháp thân thường trú của chư Phật.
Vẫn còn nhớ rõ, vào một buổi sáng đầu xuân khí trời mát dịu của ngày mùng một tết năm 1955, thầy cùng các huynh đệ chúng thường trú của Phật Học Đường Nam Việt Chùa Ấn Quang, y áo chỉnh tề cùng đến tịnh liêu Hòa Thượng đảnh lễ mừng tuổi năm mới. Với đôi mắt trong sáng hiện trên gương mặt hiền hòa, Hòa thượng nhìn từng huynh đệ một đang cung kính quỳ chắp tay lặng thầm đợi nghe lời khuyến lệ đầu xuân, rồi Ngài nhìn thẳng vào người thầy với một giọng từ hòa trong mát chậm rãi nói: Hôm nay các huynh đệ chúc mừng tuổi cũng là nhận thêm tuổi là nhận thêm bổn phận và trách nhiệm. Bổn phận người xuất gia là cố gắng y theo giới pháp tu trì, tạo cho mình một đạo lực kiên cố kiến thức vững chắc, để đảm đang trách nhiệm hoằng pháp lợi sanh. Các huynh đệ nên nhớ lời Phật dạy: “Ngày tháng trôi qua mau như nước dốc, mạng sống theo đó giảm dần như cá cạn nước, cái chết gần kề. Ngũ dục thế gian hăm hở cuốn lôi, không khéo tinh tấn tu hành niệm Phật thì vô tình bỏ lỡ cơ hội thiện duyên bồ đề đạo quả giải thoát.” Thế sự dù có chuyển biến đổi thay thế nào đi nữa, các huynh đệ nghĩ mình có thiện duyên Phật Pháp, nên giữ vững đạo tâm xuất gia lúc ban đầu thì sẽ được an lành tiến bộ. Huynh đệ nên nhớ kỹ “Hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn”.
Thường thì Hòa Thượng rất ít nói, như là một đặc tính rõ rệt. Ngài được thế nhân tăng tục kính ngưỡng có lẽ do hành nghi thân giáo nhiều hơn. Mọi lần chúc tết mừng tuổi, Ngài cũng ít nói. Nhưng đặc biệt xuân năm ấy, đầu xuân năm 1955, sau ngày hiệp định Genève chia đôi đất nước mấy tháng, Ngài nói nhiều hơn mọi năm trước, khi tăng chúng đến chúc tết mừng tuổi. Lần này, Ngài khuyến lệ chúng tăng với giọng nói hết sức tha thiết cảm động như mẹ hiền khuyên nhủ các con trước tình cảnh gia đình đột biến, khiến cho lòng thầy lúc đó cảm xúc rung động, nước mắt thành dòng, hay chính tự cõi lòng trong trắng của thầy đã âm thầm ngấm sâu lòng kính mến bậc sư trưởng từ lâu mà nay bắt được nhịp cầu giao cảm giữa tình sư đệ.
Thiết tưởng các huynh đệ cũng nên biết, ngược dòng thời gian, tính đến đầu năm 1955, trước đó chưa được mấy năm, thầy đã chính thức được nhận vào làm chúng thường trú Ấn Quang. Thì vài năm sau đó xảy ra một biến động đau lòng cho cả dân tộc, ấy là đất nước bị chia đôi hai miền Nam Bắc vào mùa thu 1954. Tình thế lúc bấy giờ cực kỳ xáo trộn ảnh hưởng không ít đến chốn thiền môn vốn đã tỉnh lặng từ lâu. Trước tình thế vô cùng biến động của đất nước làm cho các thanh niên tăng ni không khỏi phân vân về thời cuộc, mỗi người muốn tự chọn cho mình một cuộc sống để thích hợp với trào lưu xã hội đang thay đổi, nên một số tăng ni sinh xa rời Phật Học Viện để thi đua đi học chương trình thế pháp, nghề nghiệp. Họ nghĩ rằng làm như vậy là để kịp thời với trào lưu biến chuyển, hợp thời tiến bộ. Một số các Phật Học Viện cũng theo đó uyển chuyển sửa đổi chương trình giáo dục để đáp ứng nguyện vọng thầm kín của những tăng ni sinh còn đang trì chí an trú trong Phật Học Đường. Thật tình mà nói với các huynh đệ, trước tình thế cực kỳ giao động như vậy, nếu thầy không xúc động cảm thông sâu sắc tâm tư của Hòa Thượng giám đốc Thiện Hòa qua lời khuyên nhủ tết năm đó và không có lòng tin sâu chắc nơi bậc sư trưởng, thì có lẽ thầy đã bị cuống hút theo trào lưu biến động lúc bấy giờ, và chẳng biết chìm nổi trôi dạt về đâu! Biết bao thanh niên tăng ni vì quá lo âu cho tương lai của mình, thiếu lòng tin tưởng sâu sắc nơi bậc sự trưởng hướng đạo, mà rời thầy xa chúng ra đi theo trào lưu biến động của thời cuộc để phải rơi vào cảnh “tăng ly chúng tăng tàn.”
Cũng tết năm đó, qua lời khuyên thống thiết của Hòa Thượng, thầy đã nguyện quyết chí ở lại Ấn Quang, nhất định không rời Hòa Thượng cho dù tình thế biến chuyển ra sao, để được thân gần cầu học với các bậc minh sư. Nhưng rồi chưa được mấy năm, tình thế đẩy đưa, Thầy cùng bốn bạn đồng học được Ban Giám Đốc cho chuyển đến Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang để nhập cùng tăng chúng Phật Học Viện Báo Quốc, Huế, vừa mới dời vào. Ở đây tu học thời gian rồi thầy trở lại Ấn Quang Sài Gòn cho đến ngày đi du học Đài Loan.
Hôm nay nhân ngày đầu Xuân Di Lặc, thầy đặc biệt muốn nhắc đến bậc ân sư giáo dưỡng mà thầy hằng kính mến và lúc nào cũng lấy đó làm gương soi sáng, làm khuôn thước mẫu mực trên bước đường hành đạo. Các huynh đệ nên biết, người có tâm thành chánh tín thiết tha học đạo, nên tìm nương tựa bậc minh sư và chỉ cần lời khai thị của người là soi sáng trọn con đường hành đạo. Suốt gần mười bảy năm ở Ấn Quang, thầy thân gần hầu học với các bậc minh sư, đặc biệt hành nghi pháp nhủ của Hòa Thượng giám đốc Thiện Hòa thấm sâu vào tâm huyết và lúc nào cũng ảnh hiện suốt hành trình tu học của thầy, đến nỗi có lúc tưởng chừng như Hòa Thượng đang sống bên cạnh hằng ngày. Hòa Thượng đã thật sự ảnh hưởng lớn đến cuộc đời hành đạo của thầy. Thật vậy, những lời chỉ dạy khuyên nhủ của Ngài cách đây đã ba bốn chục năm mà mãi đến ngày nay vẫn còn vang vọng trong tâm thức, khi nghĩ đến bậc ân sư thì như ngọn đèn bừng sáng trong tim óc. Chẳng hạn những ngày còn ở Ấn Quang, mỗi năm đến ngày 16 tháng tư âm lịch làm lễ kiết giới an cư, thầy đến quỳ trước Hòa Thượng bạch tác pháp an cư, Hòa Thượng hỏi: Y thùy trì luật giả? Thầy đáp: Y Thiện Hòa luật sư. Hòa Thượng khuyên: Hữu nghi đương vãng vấn! Những lời dạy đó, nó trong lành dịu mát làm sao! Vô hình chung nó trở thành âm hưởng tàng sâu trong tâm thức của thầy như lời khuyên nhủ cảnh tỉnh không bao giờ dứt. Hoặc khi có việc buồn bực bất bình đến thổ lộ thưa bạch, thì Hòa Thượng dịu hiền lân mẫn, khuyên: “Chút thôi! Cố gắng nhẫn thì tốt cả.” Tuy nay hình hài của Hòa Thượng không còn trên trần thế, nhưng hành nghi pháp nhủ của Ngài vẫn mãi mãi âm vang sống động trong tâm thức của thầy. Trên đường phục vụ Phật Pháp đôi lúc gặp việc cực khó muốn buông bỏ, hay lúc chương duyên ép ngặc móng khởi nản lòng hoặc dòng tâm thức vọng động chớm lên ý niệm trong rủi bất định, thì ngay lúc đó hình dung lời dạy hiền hòa thân thiết của Hòa Thượng hiện lên rõ rệt trong tim óc, như khuyên lơn sách tấn cổ lệ “Tấn đạo nghiêm thân, dõng mảnh tinh tấn, bất khuất chướng duyên. Bỉ ký trượng phu ngã diệc dĩ.” Nhờ vậy mọi Phật sự dù thử thách khó khăn đến đâu, thầy cũng quyết kiên tâm trì chí, rồi cuối cùng cũng đạt thành sở nguyện.
Các huynh đệ nên nhớ, đời sống đạo đức càng cao, mang tâm nguyện vị tha bao la, thì đời sống vật chất danh vị lại càng đơn giản. Hòa Thượng thể hiện trọn vẹn đời sống đó. Ngài sống trọn một đời đơn giản chơn chất. Đơn giản từ phòng ở, ăn mặc cho đến hành vi ngôn từ. Tuy là Giám đốc Phật Học Đường Nam Việt, đệ tử có đến số vạn thiên, đức độ trùm khắp cả miền Nam nước Việt, vậy mà hằng ngày y phục Ngài tự giặt lấy, thấy rác sân chùa Ngài cúi lượm, nhà tắm nhà vệ sinh của tăng chúng Ngài cũng để tâm chỉnh đốn ngăn nắp, xén kiểng trồng cây, không việc gì của chùa viện chúng tăng mà không có bàn tay Hòa Thượng săn sóc. Lúc nào cũng ngủ sau dậy trước tăng chúng. Suốt hơn mười mấy năm thân gần tu học, thầy chưa từng một lần nào thấy Hòa Thượng nằm phí thời hay tỏ ra buồn chán, mặc dù trong chúng hoặc Phật sự đôi lúc cũng có chướng ngại rộn ràng. Đời Hòa Thượng đã thể hiện trọn vẹn đức tính nhẫn nhục khiêm cung hòa nhã bao dung lân mẫn khắp cả hoàn cảnh, thời gian và khắp cả mọi người mọi vật.
Nhớ lại ngày đầu tiên đến Ấn Quang, người mà Thầy gặp trước nhất là Hòa Thượng. Đúng là nhân duyên hội ngộ thời, không hẹn mà gặp! Đó là ấn tượng hiền dịu khiến cho Thầy an lòng tin tưởng đây đúng là nơi mình tu học, là bậc thầy mình nương tựa suốt đời. Lúc đến Ấn Quang, thầy còn là một chú sa-di mới vừa từ một ngôi chùa quê lên đô thành tránh sao khỏi ngơ ngác hồi hộp lo âu. Do nghe danh Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang vang lừng trong giới Phật giáo, khiến cho lòng chú sa-di quê mùa chất phát như thầy đây cũng phải khao khát ước vọng tìm đến để cầu tu học.
Các huynh đệ thử tưởng tượng, thân phận một chú sa-di quê mùa ngày ngày làm ruộng vườn gánh nước tưới cây cho chùa, đời sống hết sức là đạm bạc, sáng chiều lo việc chuông mõ kệ kinh tu hành thì làm sao có cách để đạt chí nguyện đến Phật Học Đường Ấn Quang để tu học. Trong lúc bên ngoài khói lửa chiến tranh mỗi lúc mỗi lan tràn, bom đạn tiếp tục gieo rắc đổ nát khắp làng mạc quê hương. Cảnh tang thương dây đầy trên khắp mọi nẻo đường đất nước. Phần thì Việt Minh ra lệnh đào đường phá cầu để cản trở lưu thông của địch, cổ vỏ san bằng các nhà làm bằng gạch đá, thiêu đốt đình miếu chùa chiền để quân Pháp không chiếm lấy đồn lũy. Dân tình khốn khổ trăm bề. Mặc cho thế sự thăng trầm chuyển biến đổi thay, tình đời thời thế kéo lôi dụ dỗ , thầy vẫn kiên trì ý chí đêm đêm thành kính quỳ dưới Phật đài thiết tha nguyện cầu đất nước trở lại thanh bình, dân sinh an cư lạc nghiệp, tâm nguyện đến Phật Học Đường Nam Việt Ấn Quang sớm được đạt thành. Quả thật nhiệm mầu “Nhất niệm thông tam giới”, con khóc mẹ nở lòng nào không cho bú. Xưa nay chư Phật Bồ Tát chẳng phụ lòng người thành tâm chánh niệm. Thế rồi anh xuân dương xuất hiện chân trời, duyên lành Phật độ đáp lời cầu nguyện của thầy, Ngài tọa chủ chùa Bửu Tích đặc biệt năm ấy đến dự lễ kỵ tổ chùa Long Quang, ngôi chùa đầu tiên mà thầy phát tâm quy y Tam Bảo trên bước đường xuất gia tầm sư học đạo. Gặp mặt chư sơn đông đảo, Ngài tọa chủ hào hứng đàm đạo và cho biết sẽ vào Sài Gòn đến thăm Ấn Quang. Thế là tâm nguyện tầm sư học đạo của Thầy ấp ủ từ lâu nay đã bắt đầu chớm nở. Đang làm thị giả trong bữa trai tăng cúng dường kỵ tổ, lắng nghe được điều mình ước nguyện, không bỏ mất cơ hội ngàn vàng, liền nghĩ cách, hôm sau tìm đến chùa Bửu Tích, Thầy khẩn thiết trình bày tâm nguyện với Ngài tọa chủ cầu mong Ngài giúp đỡ dẫn đến Ấn Quang. Qua mấy lần gạn hỏi, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ôi! Nỗi vui mừng không xiết kể, tia hy vọng sáng ngời trong cõi lòng thơ ngây chơn chất, lúc đó thầy tưởng chừng như được về sống cảnh giới Cực Lạc Tây Phương. Bao nỗi ưu tư, những điều khó nhọc bấy lâu dồn dập như trút hết. Một tiếng hoan hỷ nhận lời có thể cứu một đời người ra khỏi vây khốn trầm luân. Một lời hiền dịu khuyên nhủ khuyến lệ có thể hóa giải nổi u hoài thất chí, khai mở sinh lộ cho một kiếp người. Bởi thế Phật khuyên hàng đệ tử nên dùng ái ngữ để nhiếp hóa chúng sanh, nên bao dung hỷ xả để hoa giác ngộ tươi nở, nên buông thả xả kỷ sống đời vị tha để bước lên tòa liên hoa giải thoát.
Tưởng cũng nên nhắc lại cái ngày đầu thầy đến Ấn Quang với cõi lòng đang ngơ ngác đứng nhìn từng nóc chùa viên gạch, tò mò quan sát từ tường vách cho đến góc cạnh gác chuông bực thềm, mỗi mỗi đều để tâm xem kỹ cảnh trí Phật Học Đường mà bao năm từng ôm lòng ngưỡng mộ, thì đang lúc ấy một nhà sư lớn tuổi trong dáng bộ nhẹ nhàng đỉnh đạt khoản thai vừa đi vừa cúi lượm từng cọng rác nhỏ, bước đến bên thầy với giọng nói thật là hiền hỏi: Huynh ở đâu đến? Mô Phật, dạ bạch thầy con ở chùa Long Quang Phan Rí đến. Huynh đến viếng thăm? Mô Phật, dạ thưa không, con đến đây cầu xin được ở tu học. Tốt! Huynh đứng xem chơi, tôi có chút việc phải đi. Mấy hôm sau thầy mới biết đó là Hòa Thượng Giám đốc. Ngài ăn mặc cung cách quá bình dị đơn giản khác với trí tưởng tượng của Thầy. Càng về sau trên đường hành đạo dài lâu, học sâu vào những pho kinh điển mới thấy đời sống của đức Phật thật là đơn giản nhất trên đời. Ngài chỉ có một bình bát với ba pháp y, ngày đi hoằng pháp đêm nghỉ dưới gốc cây, nhưng hàm tàng một triết lý sống giải thoát siêu phàm, mà cho mãi đến gần ba ngàn năm sau, ngày hôm nay chưa có một vĩ nhân nào sánh bằng. Rồi tìm đọc qua những lời khai thị, bài kệ, sám văn của các bậc cổ đức tổ sư, càng tụng đọc càng suy gẫm càng thấm, Thầy mới rõ lẽ cung cách hành nghi của Hòa Thượng thể hiện ý nghĩa: “Không bỏ qua bất cứ một việc lành nhỏ. Vì lợi ích chúng sanh mà nhận xấu nhường tốt, nhận lấy khổ nhục.” Hòa Thượng thường khuyên tăng chúng nên trưởng dưỡng thiện tâm vun bồi phước đức. Gánh nước bửa củi phục vụ tăng chúng là phước đức thứ nhứt. Thường để tâm quét dọn chùa viện là tạo nhơn duyên thuận tiện cho phước huệ phát sanh.
Tuy là chức vị Giám đốc, nhưng chẳng mấy khi sai bảo một ai, gặp việc thì Ngài lặng lẽ tự làm lấy trừ phi trong tăng chúng ai thấy sẵn lòng đến xin giúp thì Ngài mới để cho làm. Ngài cũng chưa bao giờ hiện nét buồn chán hay la rầy lớn tiếng. Đối với người lớn bé trẻ già, Ngài lúc nào cũng biểu lộ thái độ hiền hòa bình đẳng khiêm cung. Ở nơi Ngài thể hiện đức tính khiêm từ hòa nhã hỷ xả tiếp vật đãi nhơn. Những danh vị chức chưởng do hành môn đồ xưng tụng hay hội đồng giáo hội tấn phong suy cử, đối với Ngài lúc nào cũng như lúc nào, vẫn trong trạng thái như như bất động sắc sắc không không, chẳng mấy để ý bận lòng. Không vui khi đắc, chẳng buồn khi thất. Đặc thất vô quan, biểu lộ tinh thần, “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, thạnh suy như lộ thảo đầu phô.” Hòa Thượng luôn luôn sống trong trạng thái thản nhiên thong dong tự tại. Người đời thường nói nước rặc mới biết cỏ thúi, quốc loạn mới biết tôi trung, gặp việc mới biết đá vàng. Trải qua bao cuộc biến động pháp nạn 1963 – 1966 và chiến tranh bom đạn tết Mậu Thân 1968 thiêu hủy một phần chùa Ấn Quang, Ngài vẫn an nhiên như người vô sự, chẳng tư lự lo âu hay ưu sầu than thở. Điều này chứng tỏ ở nơi Hòa Thượng có một ý chí kiên cường, một định lực phi thường mới không động duyên ngoại cảnh. Ngài sống rất bình thường, không lên núi, chẳng nhập thất, đúng như câu nói của cổ đức “Bậc đại căn trí ở ẩn nơi đô thị, thời thời khắc khắc “Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tranh chi đức.” Hòa Thượng suốt một đời tận tụy với Phật Pháp, tri túc nghiêm trì giới luật, đem hết năng lực “kiến pháp tràng ư xứ xứ”, tạo trường sở phương tiện bồi dưỡng nhân tài chân tu thật học để hoằng truyền chánh pháp ngỏ hầu “Phá nghi võng ư trùng trùng, chấn hưng Phật Pháp, tịnh hóa nhân gian.”
Hầu hết các bậc sư trưởng mà Thầy được dịp thân gần học hỏi biết qua, phương pháp quý Ngài giáo dưỡng tăng chúng đồ đệ khi cương khi nhu, nhưng đặc biệt Hòa Thượng Thiện Hòa luôn luôn dùng ái ngữ khuyên nhủ khích lệ môn đồ chứ chẳng khi nào la rầy quở trách phê bình chê bai làm buồn lòng một ai. Hạnh nhẫn nhục khiêm cung từ hòa của Ngài đã tỏa ra cảm hóa đại chúng. Nên bất cứ ai đã một lần có duyên diện kiến đàm đạo viếng thăm Ngài đều cảm thấy nơi lòng khởi lên niềm kính mến. Bản hoài của Hòa Thượng hiển lộ qua lời giảng khi dạy bộ luật Tứ Phần qua lời giảng, ước vọng tăng chúng mỗi người tạo cho mình học hạnh song toàn, hoặc học ít mà trì giới tu hành nghiêm chỉnh vẫn hơn là đa văn thất hạnh. Nói đến đây, Thầy còn nhớ năm nọ vào một ngày sau lễ rằm Tháng Bảy, tự tứ, Hòa Thượng dẫn thầy đi núi Thị Vãi gần thị xã Bà Rịa để xem đất trong chương trình kiến thiết Đại Tòng Lâm. Trưa hôm ấy thầy trò ngồi dùng cơm trên tảng đá lớn dưới bóng mát tàng cây cổ thụ. Lúc ấy lòng thầy phơi phới liền gợi chuyện thưa với Hòa Thượng nào là chuyện Đại Tòng Lâm tương lai, chuyện học hành thầy bạn, chuyện các bậc tôn túc bạn đồng tu học với Hòa Thượng năm xưa bây giờ còn những ai, chuyện người nầy viết văn hay, Thầy kia thuyết pháp giỏi, vị nọ biện luận hùng hồn hấp dẫn v.v… Hòa Thượng lặng thinh nhìn thấy rồi Ngài chậm rãi nhỏ nhẹ: “Viết giỏi nói hay chẳng bằng tu hay. Tu chưa hay thì khó có ngày giác ngộ. Không giác ngộ thì vô vọng giải thoát.” Qua lời dạy thật đơn giản, nhưng hàm tàng ý nghĩa thâm sâu của Hòa Thượng, các huynh đệ thấy rõ, tầm sư học lấy đạo hạnh làm đầu. Phước huệ lưỡng toàn mới mong đạt thành chính giác, giải thoát luân hồi sanh tử. Người tu học Phật mà dễ dãi với những tật xấu tánh hư của mình thì làm sao ba nghiệp thân miệng ý thanh tịnh được. Ba nghiệp không thanh tịnh thì mong gì ba rắn độc tham sân si rời khỏi mình. Nhà nho dạy: “Nhứt nhựt tam tỉnh ngộ thân”. Cổ đức dạy: “Thời thời thường phất thức, vật sử nhạ trần ai”. Hương Hải thiền sư chuyên dạy đạo cho vua Lê Dụ Tôn: “Nghe lại điều mình thấy mỗi ngày, suy đi nghĩ lại kỹ càng hay, chở tìm Phật tánh trong cơn mộng”.
Phương pháp tu của Hòa Thượng cũng thật là bình dị có thể tóm tắc trong một câu: “Nhẫn nhục khiêm cung từ hòa. Nghiêm trì giới luật vị tha. Chuyên tâm trì niệm Di Đà. Kiến lập đạo tràng bồi dưỡng tăng tài”. Thế nên tịnh liêu của Ngài đâu thì nơi đó có thiết trí tôn tượng đức Phật A Di Đà và tòng lâm học viện tăng chúng. Hòa Thượng trọn đời không rời câu niệm Phật. Quả thật Ngài đã đạt đến tinh thần “Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm”. Ai đến hỏi đạo thì Ngài chỉ khuyên niệm Phật. Nhớ ngày thầy bái biệt Hòa Thượng để lên đường xuất ngoại du học, Ngài ân cần nhắc nhủ: “Thầy Đức Niệm nên luôn nhớ giới Pháp giữ ba nghiệp thanh tịnh, chuyên trì danh hiệu Phật trong tâm ở bất cứ mọi trường hợp”. Và sau này khi còn tu học ở Đài Loan, Hòa Thượng thỉnh thoảng cũng gửi thư nhắc nhở: “Dù bận học hay trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi đêm trước khi đi ngủ nhờ ngồi tĩnh tâm niệm chú Đại Bi, Bát Nhã và Niệm Phật”. Ngày nay Hòa Thượng không còn trên cõi đời nhưng lời khuyên nhủ, đạo hạnh của Ngài vẫn rực sáng trong cõi lòng thầy và còn là bóng cây cổ thụ che mát tăng tín đồ Việt Nam. Đức độ của Ngài đã đào tạo nên những tăng nhân tài đức hiện đang hành đạo hoằng pháp ở khắp quốc nội và hải ngoại.
Người tu học Phật là người đi ngược dòng đời sanh tử, như thuyền đi ngược dòng thác lũ phải liên tục nỗ lực ra sức chống chèo mới mong vượt thoát hiểm nguy để đi đến đích. Cũng vậy, ngày hôm nay các huynh đệ đã phát tâm xuất gia, lập chí xuất trần thượng sĩ, lìa bỏ ngũ dục thế gian tầm sự xuất gia học đạo, nguyện theo gót chân Phật sống đời đạo hạnh vị tha để ngày kia thành tựu đạo quả giác ngộ giải thoát, thì phải quật khởi tinh thần dõng mãnh phát đại nguyện: Thà bỏ thân mạng chứ không để giới thân tâm đạo suy tàn. Cẩn trọng giữ giới như giữ đôi mắt. Thường quán nội tâm để diệt trừ vọng niệm, giữ tâm hành đạo như người giữ cương ngựa đi vào chốn đô thị, như thủy thủ giữ lái tàu giữa biển cả bão tố. Luôn luôn tinh tấn để khắc phục chương duyên, mạnh dạng hiên ngang tiến bước trên đường hành đạo như sư tử chúa đi vào rừng. Lấy tâm hạnh đức Phật và tinh thần hành đạo của các bậc tiền bối ân sư làm gương sáng để tự khích lệ tinh thần mà tiến thân. Phật dạy: “Trên đường hành đạo dù có gặp chướng duyên nguy khó vấp ngã lần thứ một trăm, thì cũng phải hăm hở mạnh dạn đứng lên tiến bước như lần đầu.” Mỗi đêm trước khi ngủ, nên tĩnh tọa kiểm điểm tâm niệm hành vi của mình một ngày qua, để từ đó thấy ra điều tốt xấu mà thúc liểm thân tâm tiến tu đạo nghiệp. Nếu không như vậy, để ngày tháng trôi qua uống một đời xuất gia vô ích. Như bậc thiền đức nói: “Trước mặt việc đi mãi, trên đầu già đến rồi”. Phải nên “Thời thời thường lau quét, chớ để bụi dính nhơ”.
Nay ngày đầu xuân giáp tuất 1994, bên ngoài thế nhân rộn rực áo quần mới, quà mức đầy, vui say chè ché . Trong cửa thiền đời sống xuất gia thanh đạm sư đệ tặng quà tết cho nhau bằng ba nén hương lòng giới định huệ. Để thực tế cho đời sống đạo, Thầy kể chuyện Ngày Xuân Nhớ Thầy làm quà tết cho các huynh đệ. Ước mong các huynh đệ có thể từ món quà tinh thần này mà trở thành những bậc thầy mô phạm cho các thế hệ mai sau.
(Nguồn: Tạp chí Phật giáo hải ngoại, số ra mắt tháng 2.1994)