Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    Facebook Twitter Instagram Pinterest YouTube
    • Mục đích & Chủ trương
    • Tác giả
    • Liên lạc
    Facebook Twitter Instagram YouTube
    Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    • PHẬT HỌC
      • Đức Phật
        • Thánh đản
        • Thành đạo
      • Phật học phổ thông
      • Nghiên cứu
      • Giảng luận
      • Pháp thoại
      • Ứng dụng
      • Trích dẫn Phật pháp
    • KINH – LUẬT – LUẬN
      • Kinh
        • Giới thiệu kinh
        • Giảng giải
      • Luật
        • Luật học
      • Luận
    • PHẬT GIÁO VIỆT NAM
      • Lịch sử
      • Nhân vật
        • Chư Tôn đức
        • Cư sĩ hữu công
        • Tiểu sử
      • Sự kiện
      • Tưởng niệm
    • CHUYÊN ĐỀ
      • Dân tộc
      • Giáo dục
      • Khoa học
      • Xã hội
      • Triết học
      • Biên khảo
      • Phật giáo thế giới
      • Nhìn ra thế giới
    • TUỔI TRẺ
      • Đời sống
      • Hành trang
      • Gia đình Phật tử
    • VĂN HÓA
      • Xuân Vạn Hạnh
      • Quán Thế Âm
      • Kiết hạ
      • Vu Lan
      • Nghi lễ – Phong tục
      • Mỹ thuật – Kiến trúc
      • Âm nhạc
    • VĂN HỌC
      • Văn
      • Thơ
      • Truyện
      • Tùy bút
      • Phê bình
      • Giới thiệu – Điểm sách
    • PHẬT SỰ
      • Tin tức
    • THƯ VIỆN
      • Báo chí
        • Kỷ yếu
        • Tạp chí
        • Tập san
      • Sách
      • Tham luận
      • Luận văn
      • Tư liệu
      • Media
        • Audio – MP3
        • Video Clips
      • Hình ảnh
    • NGOẠI VĂN
      • General Buddhist Studies
      • Buddhism with Youth
      • Buddhist Education
      • Buddhist History
      • Buddhist Culture
      • Buddhist Literature
      • Buddhist Sociology
    Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    Home»Tiêu điểm»Thích Phước An: Từ đêm nhìn sao Mai mọc nơi rặng Hy mã lạp sơn đến những con đường thôn dã của quê hương
    Tiêu điểm

    Thích Phước An: Từ đêm nhìn sao Mai mọc nơi rặng Hy mã lạp sơn đến những con đường thôn dã của quê hương

    30/07/202115 Mins Read
    Facebook Twitter Pinterest LinkedIn Email
    phat thich ca
    Share
    Facebook Twitter LinkedIn Pinterest Email

    Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: “Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa”.

    Nhưng thế nào là hình ảnh, giáo sư Nguyễn Lang giải thích:

    Khi Vô Ngôn Thông được hỏi về thiền và thiền sư, ông đã im lặng lấy tay chỉ vào một gốc cây Thoa lư. Thiền và thiền sư trong lãnh vực đàm luận có thể là những khái niệm trừu tượng, gốc cây Thoa lư là một hình ảnh cụ thể của thực tại, nếu nhìn gốc cây Thoa lư trong chính thực tại của nó tức là đã xâm nhập thế giới thiền và trở thành thiền sư. Các thiền sư không bao giờ muốn đưa học trò của mình vào thế giới suy luận trừu tượng”.[1]

    Tất nhiên, trong các tông phái của Phật giáo, thì thiền là tông phái gây cảm hứng mạnh mẽ nhất trong mọi lĩnh vực sáng tác nghệ thuật. Đặc biệt là trong lĩnh vực thi ca. Nhưng theo tôi, chính Đức Phật mới là người đầu tiên khai mở dòng cảm hứng bất tận ấy cho những nghệ sĩ sáng tạo.

    Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì thái tử Tất-đạt-đa hốt nhiên đại ngộ (Anuttara Samyak Sambodhi) mà người Trung Quốc đã dịch là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nghĩa là chứng nhập chân lý tối cao.

    Ta có thể đặt câu hỏi, tại sao Đức Phật không hốt nhiên đại ngộ vào buổi trưa hay buổi chiều? Mà biến cố ấy lại xảy ra vào lúc sao Mai mới mọc? Phải chăng đó là giây phút đẹp nhất? Giây phút mà vũ trụ vừa thức tỉnh sau một đêm dài bị bóng tối vây phủ. Như vậy giây phút mà Đức Phật giác ngộ đó, nếu ta nhìn theo cách nhìn của thi nhân thì đó là giây phút mà Đức Phật đã nắm bắt được cái đẹp thiên thu của vũ trụ chính trong lòng bàn tay của Ngài.

    Nhưng thơ là gì? Và tại sao con người phải làm thơ? Thi hào Hàn Mặc Tử của Việt Nam, người đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời ngắn ngủi của mình cho thi ca và nhất là đã từng trải qua những đau khổ nhất cũng như hoan lạc nhất trong trái tim rỉ máu của mình, đã cho biết vì sao ông làm thơ:

    “Tôi làm thơ nghĩa là vì tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi bị phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú, có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi?”

    Trong Trường Bộ Kinh có ghi lại, sau khi rời gốc cây Bồ đề, trên đường trở về thành Ba La Nại gặp đạo sĩ Upaka, Đức Phật đã reo lên:

    Ta là bậc tối thắng. Ta là bậc toàn trí
    Xả trừ hết ô nhiễm và trần cấu,
    Lìa bỏ tất cả, lửa tham dục đã tắt
    Ta không học với ai, thì còn biết gọi ai là Thầy?
    Những gì Ta biết Ta không học với một ai,
    Không ai bằng Ta trên thế gian này,
    Dầu sanh ở cõi phàm hoặc cung trời
    Không một ai bằng Ta hết
    Ta đã thực sự chiếm được quả giải thoát,
    Toàn thế gian Ta là bậc Vô thượng đạo sư,
    Độc nhất trong đời, hoàn toàn giác ngộ,
    Tự ngự trong yên vui vô thượng.

    Nếu hiểu thi ca trong tinh thần Hàn Mặc Tử, thì những lời trên của Đức Phật cũng có thể tạm gọi là ngôn ngữ của thi ca, vì nó đã được tuôn trào từ trái tim tràn đầy hoan lạc của một người vừa tìm lại được tự do nơi chính quê nhà của mình sau bao thuở lang thang phiêu dạt tận nơi góc bể chân trời.

    Và rồi sau đó trong gần 50 năm lang thang khắp lục địa Ấn Độ rộng lớn, từ những cung điện nguy nga tráng lệ của vua chúa đến những căn nhà nghèo khổ tăm tối nhất thuộc giai cấp tiện dân, từ những bậc Thánh ẩn mình trong rừng sâu đến những tay đồ tể giết người, hay từ một tư tưởng gia thông thái đến những người nông dân chất phác thất học, với lòng từ bi vô hạn, Ngài đã vì sự thống khổ của muôn loài mà tuyên thuyết không biết bao nhiêu thi kệ. Những thi kệ ấy, có khi thì chất phác giản dị từ nội dung tư tưởng đến ngôn ngữ như trong các kinh thuộc thời nguyên thủy, khi như bay bổng tuyệt vời như trong các kinh thuộc đại thừa. Chẳng hạn như Hoa Nghiêm Kinh, ta đọc mà có cảm tưởng như đó là trường thi vĩ đại nhất mà dân tộc Ấn Độ đã cống hiến cho thi ca nhân loại, và phải chăng chỉ có một dân tộc được sanh ra dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn cao nhất thế giới thì mới tạo ra một thứ ngôn ngữ kỳ lạ như vậy?

    Năm 520 Bồ-đề-đạt-ma mang thông điệp Phật giáo Thiền tông đến Trung Quốc. Đã biết bao thiên niên kỷ trôi qua rồi, vậy mà cái truyền thuyết về việc Đức Phật cầm đóa hoa đưa lên trước Pháp hội và nụ cười mênh mông của Tôn giả Ca-diếp trên đỉnh núi Linh Thứu cùng với đôi mắt của Bồ-đề-đạt-ma chín năm trầm hùng nhìn vào vách đá chùa Thiếu Lâm, đôi mắt sâu thẳm như đang nhìn vào kiếp người đen tối vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng tinh thần sáng tạo nghệ thuật không những chỉ tại Trung Quốc mà còn cả toàn thể thuộc khu vực miền Viễn Đông nữa.

    Nhưng vì Bồ-đề-đạt-ma dù sao cũng là người Ấn Độ nên theo D.T. Suzuki chỉ có công khai mở một trào lưu. Phải đợi đến khi Huệ Năng, một người sanh ra từ đất Trung Hoa, và với thiên tài Huệ Năng thì thiền mới chính thức trở thành một trào lưu tâm linh vĩ đại cho đến ngày nay.

    Nhưng mảnh đất đã sinh ra Bồ-đề-đạt-ma có gì khác biệt với mảnh đất đã sinh ra Huệ Năng? “Con người Trung Hoa mãi mãi là những đứa trẻ bụi đời, vóc dáng nặng nề không bao giờ dám bay bổng lên mây. Sinh hoạt của họ thường ngày là cày cuốc, là gom lá khô, là xách nước, là buôn bán, là hiếu thảo, làm việc công ích, là quy định những lễ nghĩa rắc rối nhất đời, đại khái có nghĩa là có ý thức về lịch sử, quan sát thời vụ, là ghi lại những dấu vết ấy làm chứng tích của thời gian. Người Trung Hoa có thể tự hào giỏi ghi chép nhất trong đời, trái hẳn với người Ấn Độ đánh mất ý niệm thời gian.”[2]

    Vì tinh thần thực tiễn như vậy nên người Trung Hoa say sưa với những gì trên mặt đất này: “Núi vút trời cao, nước đi ra biển, cây trổ hoa xuân, hoa đơm tàn đỏ. Trăng sáng thì nhà thơ say sưa trổ khúc thái bình.”

    Lục tổ Huệ Năng là một người con của một đất nước như thế, mà lại sống cùng thời đại với Lư Chiếu Tân (637-690), Mạnh Hạo Nhiên (689-740) và Vương Duy (710-776) v.v… tức là những tên tuổi lớn của thi ca Trung Quốc thời sơ Đường. Đặc biệt là khi Lục tổ Huệ Năng đang du thuyết đạo thiền thì Lý Bạch, thi hào được xem như là vĩ đại nhất của Trung Quốc đã là cậu thiếu niên 12 tuổi, và năm Huệ Năng viên tịch thì thi hào Đỗ Phủ vừa chào đời được một năm, Đỗ Phủ sanh 712 và mất 770. “… Huệ Năng viên tịch năm 713, thọ 76 tuổi, nhằm thời thịnh Đường thiên hạ vui cảnh thái hòa và văn hóa Trung Quốc vút đến tuyệt đỉnh vinh quang trong lịch sử”.[3]

    Bởi vậy, dù không phải là một thi nhân, nhưng khi đem những vấn đề huyết mạch nhất của tư tưởng Phật giáo để giải thích cho người Trung Hoa thì Huệ Năng đã sử dụng ngôn ngữ đầy hình ảnh thi ca, ví dụ đoạn này trong Pháp Bảo Đàn Kinh:

    Huệ Năng này bước ra ngồi xếp bằng trên tảng đá, Huệ Minh làm lễ nói rằng: Mong hành giả nói pháp cho tôi nghe!

    Huệ Năng nói: Nếu ông vì Pháp mà đến, thì nên dứt tưởng niệm, lành dữ thảy đừng nghĩ tới. Huệ Minh vâng lời.

    Giây lâu Huệ Năng lại nói: Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác, ngay lúc này đây đưa cho tôi xem cái bản lai diện mục của ông trước khi mẹ ông sinh ra.

    D.T. Suzuki cho rằng đoạn kinh trên là sự sáng tạo vĩ đại nhất của thiên tài Trung Hoa, là một chân trời mới mà Huệ Năng đã mở ra cho Thiền cổ truyền Ấn Độ. Ở cách nói ấy, ta không thấy gì là Phật giáo hết, thế có nghĩa là Huệ Năng tự vạch ra cho mình một con đường riêng rẽ diễn đạt một chân lý thiền theo kinh nghiệm riêng độc đáo, và đầy tinh thần sáng tạo trước Huệ Năng để biểu thị kinh nghiệm ấy, người ta vay mượn đó đây, mượn chữ cũng như mượn phương pháp nói rằng: “Ông là Phật, hoặc là Phật ở trong ông” thật quá sáo, quá chìm, vì quá trừu tượng, quá khái niệm. Những câu nói ấy đành là có chứa đựng một chân lý thâm diệu nào đó, nhưng thiếu cụ thể, không đủ sinh khí lay hồn ta chìm lỉm giữa trừu tượng và từ chương vậy. Huệ Năng chất phác ở tâm, mộc mạc ở trí, không nhiễm phải cái học của đạo và đời, Huệ Năng có thể nắm lấy chân lý nóng hổi trong tay, và đó là chỗ tươi mát khác thường của tâm trí trong khi tiếp xử với đời”.[4]

    Chất phác ở trong tâm, mộc mạc ở trí.

    Có lẽ đấy chính là điểm gặp gỡ quan trọng nhất giữa thiền (nhất là thiền của Huệ Năng) và thi ca. Đặc biệt là sau hai câu thơ lừng danh của Bàng Uẩn, một trong những cư sĩ trác việt nhất của Phật giáo thiền tông Trung Quốc:

    Thần thông tịnh diệu dụng
    Vận thủy cập ban sài

    (Này thần thông! Này diệu dụng!
    Ta gánh nước! Ta đốn củi)

    Khởi đầu là Trung Quốc, rồi sau đó tràn qua Nhật Bản, Triều Tiên, rồi tất cả các quốc gia thuộc khu vực miền Viễn Đông, tại các thiền viện, chùa chiền, trong các công án, pháp ngữ hay kệ thị tịch của các thiền sư, ta thấy tràn đầy tinh thần thi ca.

    Tại Việt Nam, ngoài các thiền sư thi sĩ đời Lý, Trần, ta còn thấy đầu đời hậu Lê có bậc anh hùng Nguyễn Trãi, một con người hoàn toàn cô độc trước thời đại mình đang sống, đã luôn luôn mong ước dù chỉ một lần thôi, được đến tận nguồn của suối Tào Khê, nơi mà Lục tổ Huệ Năng đã khai mạch cho dòng suối tâm linh vĩ đại ấy:

    Bán sinh khưu hắc tiện u thê
    Thiền pháp phân minh thính điểu đề
    Vạn lý Nam lai sơn thủy viễn
    Nhất sinh năng kỷ quá Tào Khê

    (Nửa đời ẩn dật sẵn hang sâu
    Vang động gian chùa tiếng nhạn kêu
    Muôn dặm từ Nam non nước thẳm
    Một đời mấy bận tới Tào Khê)

    Vì nước của dòng suối ấy, Nguyễn Trãi tin tưởng rằng, không chỉ rửa sạch những đau khổ của chính mình thôi mà còn cả mọi sinh linh thống khổ khác nữa:

    Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
    Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần

    (Trước cửa Tào Khê dòng nước chảy
    Rửa hết bụi bặm bao nhiêu kiếp của nhân gian)

    Trong một bài thơ chúng ta biết rằng, Nguyễn Du đã trì tụng kinh Kim Cang hơn cả ngàn lần, vậy mà thi hào của chúng ta vẫn không hiểu hết ý nghĩa sâu xa của kinh. Cuối cùng phải nhờ bài kệ đắc pháp của Lục tổ Huệ Năng mới chợt nhận ra rằng, con đường đi vào thực tại không qua ngôn ngữ mà chính là con đường của vô ngôn, nghĩa là con đường của im lặng:

    Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
    Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
    Minh kính diệc phi đài
    Bồ đề bổn vô thọ
    Ngã độc Kim Cang thiên biến linh
    Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh
    Cập đáo phân kinh thạch đài hạ
    Tài trí vô tự thị chân kinh

    (Ta giải thoát khi nào trong lòng đã sáng tỏ,
    Linh Sơn ở ngay trong chính ta,
    Gương sáng vốn không đài,
    Cây Bồ đề cũng không có gốc,
    Ta đã từng đọc kinh Kim Cang hơn ngàn lần,
    Ý nghĩa sâu xa vẫn chưa hiểu hết,
    Chỉ đến khi đứng trước đài phân kinh
    Mới hay rằng vô tự mới chính là chân kinh).

    Nhưng tại sao một số tổ sư của Phật giáo mà lại dấy động được cả phong trào thi ca rầm rộ như vậy?

    Tôi nhớ hồi nhỏ tôi được đọc Pháp Bảo Đàn kinh tại một ngôi chùa ở vùng núi non hẻo lánh thuộc miền Trung. Thôn quê vốn đã vắng vẻ tịch mịch, mà cách đây 40 năm lại càng vắng vẻ và tịch mịch hơn. Hồi đó tôi mới học lớp 4 hoặc lớp 5 ở trường làng, nên dĩ nhiên đọc Pháp Bảo Đàn kinh cũng như đọc chuyện cổ tích vậy thôi.

    Nhưng chính nhờ đọc như chuyện cổ tích mà tôi mới thấy hình ảnh của Lục tổ Huệ Năng gần gũi với tuổi thơ của tôi vô cùng, tôi cứ tưởng tượng cái xứ Lĩnh Nam mà Lục tổ nói là nghèo khổ quê mùa đó chắc cũng giống như quê của tôi, cũng những người nông phu ra đồng cày ruộng, cũng những người tiều phu lên rừng đốn củi. Ngôi chùa Đông Thiền núi Hoàng Mai sinh hoạt cũng giống như những ngôi chùa trong rặng núi quê tôi, nghĩa là cũng xay lúa, cũng giã gạo, bửa củi, nhiều khi tôi còn tưởng tượng hình ảnh của Lục tổ Huệ Năng mặc chiếc áo tràng màu nâu đất, mang đôi guốc gỗ lầm lũi bước đi, có lúc là giữa núi rừng chập chùng, có khi là trên những con đường thôn dã giữa những người nông dân chân lấm tay bùn.

    Khi lớn lên lưu lạc các chùa ở thành phố, sống giữa thế giới văn minh tiến bộ, nên tất nhiên tôi cũng không còn đọc Pháp Bảo Đàn Kinh như đọc một câu chuyện cổ tích nữa, nhưng lúc nào hình ảnh của Lục tổ Huệ Năng và ngôi chùa xưa dưới bầu trời cao rộng, nơi một vùng quê tĩnh mịch vẫn cứ sống êm đềm trong ký ức tuổi thơ xa xôi của tôi.

    Và tôi cũng nghĩ rằng, hễ bất cứ cái gì đưa tâm hồn con người đi lên, đưa con người tiến về cái đẹp, thì cái đó chính là hình ảnh thi ca vậy.

    Dường như thế giới càng văn minh tiến bộ bao nhiêu, thì tâm thức của con người càng hoang mang và lạc lõng bấy nhiêu. Sự hoang mang đó có lẽ cũng giống như sự hoang mang của Thần Tú (một con người rất uyên bác) khi Ngũ tổ bảo phải làm một bài kệ khác để trình cái sở chứng của mình: “Tâm trung hoảng hốt, thần tứ bất an, du như mộng trung, hành tọa bất lạc (Trong lòng hoảng hốt, thần tứ chẳng an, dường như giấc mộng, đi ngồi chẳng vui)”.[5]

    Nghĩa là bất an và đau khổ vì cái sở học uyên bác của mình.

    Có lẽ nhân loại đang đứng trước thế kỷ 21 này nên khởi sự học lại từ đầu cái mà Lục tổ Huệ Năng đã bị mắng là “nhĩ giá lạp lão bất tri” (con người man rợ này chẳng biết chi hết), thì mới mong tìm được một nền văn minh đích thực cho chính mình chăng?

    Nha Trang mùa hạ 98.

    _______________

    [1] Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, tr. 204, nxb Văn học, Hà Nội 1994.

    [2] Thiền Luận, D.T. Suzuki, Trúc Thiên dịch, tr.144, nxb An Tiêm 1973.

    [3] sđd, tr. 356.

    [4] Sđd. tr. 331.

    [5] Pháp Bảo Đàn kinh, phẩm Tự tự.

    Thích Phước An
    Share. Facebook Twitter Pinterest LinkedIn Tumblr Email
    Previous ArticleTâm Quảng Nhuận dịch: Phúc lợi xã hội và cuộc khủng hoảng do Coronavirus: Góc nhìn của Phật giáo
    Next Article Chögyam Trungpa Rinpoche | Đạo Sinh dịch: Đời sống và tấm gương Đức Phật

    Bài viết liên quan

    HT Thích Mãn Giác: Chim bay về núi

    13/08/2022

    Tuệ Sỹ: Thay Lời Tựa cho tập “Thơ và Đá”

    05/08/2022

    Tuệ Viên sưu tầm và phỏng dịch: Nụ cười Thiền

    01/08/2022
    Add A Comment

    Leave A Reply Cancel Reply

    Bài mới

    HT Thích Mãn Giác: Chim bay về núi

    13/08/2022

    HT Thích Nguyên Siêu: Vu Lan về, Mẹ là nguồn thi ca vô tận

    12/08/2022

    Quảng Tánh: Hạnh Hiếu thế thường của vị tỷ-kheo

    11/08/2022

    Thích Tâm Nhãn: “Sắc phục Tăng lữ” – Chặng đường tìm lại cội nguồn

    10/08/2022
    Mạng xã hội
    • Facebook
    • Twitter
    • Pinterest
    • Instagram
    • YouTube
    • Soundcloud
    Website Phật giáo

    Hội Đồng Hoằng Pháp | GHPGVNTN

    Viên Giác Pagoda

    Quảng Ðức Homepage

    Phật Giáo Úc Châu

    Thư Viện Hoa Sen

    Thư Viện Số Hóa Kinh Sách

    Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam

    Làng Mai

    Hoa Vô Ưu

    Hương Tích Phật Việt

    Rộng Mở Tâm Hồn

    GÐPT/VN Trên Thế Giới

    GÐPT Việt Nam

    Sen Trắng | Đạo tràng Lam viên bốn phương

    © Copyright 2022, ThuVienPhatViet.Com. All Rights Reserved
    • Mục đích & Chủ trương
    • Tác giả
    • Liên lạc

    Type above and press Enter to search. Press Esc to cancel.

    Go to mobile version