Tôi viết bài: “Tăng Sĩ và Chiếc Áo Cà Sa” cốt để nhắc nhở bổn phận tu học của mình trong mùa An Cư cũng như cả đời sống xuất gia và xin chia xẻ đến những ai quan tâm tìm hiểu về ý nghĩa của Y Phục Tăng Sĩ Phật Giáo.
Nay đang vào tháng đầu tiên của mùa An Cư Kiết Hạ, mùa mà chư Tăng Ni thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức và kinh nghiệm nơi giới trường Tu Viện Nguyên Thiều và những giới trường miền Trung tôi đã thấy thì trong mùa hạ Chư Tăng Ni chuyên lo hành trì miên mật, tụng kinh bái sám liên tục đến nỗi “y áo không kịp khô”. Đây cũng là mùa để cho cư sĩ Phật tử có nhiều cơ duyên thân cận học hỏi, cúng dường chư Tăng và gieo nhiều giống lành cho ruộng phước điền. Trong phẩm vật cúng dường cư sĩ dâng cúng chư Tăng trong giờ Quá Đường thường có kèm theo những xấp vải vàng để chư Tăng may y áo. Năm nay, trong hoàn cảnh “nhất tăng nhất tự” vì cần hiện diện tại trú xứ để lo những Phật sự cần thiết và các trường hạ đang tổ chức khá xa xôi nên cũng khó tùng hạ để tham dự Bố Tát hàng nửa tháng, tôi chỉ biết tâm niệm an cư. Giờ này nhìn chiếc y vàng treo trước mắt mình, tôi trầm tư về nguồn gốc, cách thức may và ý nghĩa mặc chiếc y. Trong dòng cảm xúc ấy, tôi viết bài: “Tăng Sĩ và Chiếc Áo Cà Sa” cốt để nhắc nhở bổn phận tu học của mình trong mùa An Cư cũng như cả đời sống xuất gia và xin chia xẻ đến những ai quan tâm tìm hiểu về ý nghĩa của Y Phục Tăng Sĩ Phật Giáo.
Cách đây hơn 2600 năm, Thái Tử Tất Đạt Đa nửa đêm lặng lẽ giã từ cha già, mẹ yếu, vợ đẹp, con xinh, kinh thành Ca Tỳ La Vệ và thần dân trăm họ để xuất gia tầm Đạo. Sau khi vượt khỏi dòng sông Anoma rì rào sóng vỗ, “Thái tử gò mạnh dây cương nhảy xuống ngựa: Con đường mòn tới đây là dứt nẻo. Ngài trao cương ngựa cho Xa-nặc, từ biệt:
Ta rất cám ơn người. Tình ta đối với người rất nặng và ta nhớ mãi cái ơn này. Ta nhờ ngươi dắt con Kiền-trắc về; và đây, tấm áo hoàng vương mà ta không cần đến nữa; đây, sợi dây lưng nạm ngọc, và nắm tóc mây mà ta đã cắt với lưỡi kiếm này, ta nhờ ngươi đem về dâng cho phụ hoàng và tâu với ngài hãy tạm quên ta cho đến ngày ta trở về…”[1]
Sau đó, Thái Tử tự cắt bỏ râu tóc và mặc y phục sa-môn. Đó là chiếc cà sa đầu tiên trong Phật Giáo. Bồ Tát Tất Đạt Đa trong giai đoạn xuất gia tu tập đã lượm vải bô chằm vá để tạo thành áo cà sa mặc che nắng che mưa:
Áo đã mặc nhiều năm rách rã
Lượm vải bô chằm, vá, khiếu, khâu
Khẽ khầm từng miếng kế đâu
Thành Y bá nạp ngõ hầu che thân.[2]
Chiếc cà sa đó đánh dấu một sự thoát ly vĩ đại: một Thái Tử tột bực cao sang có tất cả lại giã từ tất cả để xuất gia tìm chơn lý. Đó là một sự thoát xác tận gốc rễ làm lay chuyển ý thức phân biệt giai cấp nặng nề của Ấn Độ: Một Thái Tử đã cởi bỏ hoàng bào của giai cấp Sát Đế Lợi khoác lên mình một mảnh cà sa không giai cấp. Rồi từ đó, chiếc cà sa ấy gắn liền với đời sống tu học của Bồ Tát trong 6 năm, chịu đựng bao nhiêu cào xước bởi gai góc của núi rừng khe lạch trên đoạn đường dài tầm Thầy học Đạo, nhuốm đượm phong sưong bởi thời tiết khắc nghiệt của Ấn Độ nơi đỉnh Tuyết Sơn qua bao ngày đêm miệt mài tu niệm. Chiếc cà sa ấy đơn sơ nhưng cao quý vì nó che chở cho một hành giả quên thân vì Đạo Pháp, chứa đựng một tâm hồn cao thượng, một ý chí không thối chuyển, một trái tim trải yêu thương đến vạn loài, đang hun đúc cho Trí Tuệ rạng ngời. Rồi một đêm, đêm thứ 49 dưới gốc cây Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, chiếc cà sa ấy đã trở thành huỳnh y rạng rỡ chói sáng bởi Ánh Đạo Vàng giác ngộ vừa phát minh, lung linh ngàn sắc hoa tươi thắm do chư Thiên cúng dường, cà sa thay sắc màu và Bồ Tát Tất Đạt Đa lên ngôi: Ngôi vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Theo Luật Tứ phần, sau khi Ðức Phật chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển (Isipatana – Sarnath), độ năm anh em ông Kiều Trần Như trở thành năm vị đệ tử Tỳ Kheo đầu tiên, “Một thời Thế Tôn ở trong vườn Lộc dã, nước Ba-la-nại. Bấy giờ có năm tỳ-kheo đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:
«Chúng con nên thọ trì loại y nào?»
Đức Phật dạy:
«Nên thọ trì y phấn tảo và mười loại y như: câu-xá, kiếp-bối, khâm-bạt-la, sô-ma, xoa-ma, xá-nâu, ma, sí-di-la, câu-nhiếp-la, thẩn-la-bát. Mười loại y như trên nhuộm thành màu sắc ca-sa để thọ trì.”[3]
Phấn tảo y (Pamsukùla) là y được chấp nối bằng những mảnh giẻ rách chủ yếu là do lượm được từ các đống rác, đống phân (midden) hoặc bãi tha ma, “…một y thuộc một trong những loại sau: vải lấy từ nghĩa đại, từ cửa hàng, từ đường cái, từ hố phân, từ giường trẻ, vải tẩy uế, vải từ chỗ tắm, vải đi về nghĩa địa, vải bị cháy, bị gia súc ăn, bị kiến ăn, bị chuột ăn, vải rách ở biên, rách ở đầu, vải làm cờ, vải bỏ từ điện thờ, y của nhà khổ hạnh, vải từ cuộc lễ, vải do thần thông biến hoá, vải trên xa lộ, vải gió bay, vải do thiên thần bố thí, vải trôi giữa biển, lấy một trong những thứ vải này vị ấy nên xé bỏ những mảnh rách nát, giặt sạch những mảnh lành lặn để làm thành một cái y”[4]
Nhuộm y thành màu ca sa là như thế nào? Cà sa (kàsàya) là những loại vải đã không còn giữ được màu sắc chính, đã được nhuộm bằng nước do các vỏ cây giã ra, đặc biệt là từ gỗ và vỏ cây mít băm vụn và đun trong nồi. Những tấm vải này có màu vàng nâu nên được gọi là hạt sắc y hay hoại sắc y.
Câu chuyện về những kỳ tích của vị danh y Kỳ Bà (Jivaka), ngự y của vua Bình Sa Vương (Bimbisara) và sau này là bác sĩ riêng để chăm sóc Đức Thế Tôn, đã cho chúng ta biết ai là người đầu tiên cúng dường Y đến Thế Tôn và Ngài bắt đầu cho phép Tỳ Kheo nhận vải và Y cúng dường từ lúc nào:
Khi vua Ba La Thù Ðề (Pajjota) của xứ Úy-thiền (Ujjeni) được danh y Kỳ Bà chữa khỏi một cơn bệnh ngặt nghèo, vua đền ơn vị danh y này với một tặng phẩm là một chiếc y vô cùng quý giá, trị giá bằng phân nửa nước Úy Thiền. “Một hôm, Kỳ-bà Đồng tử mang chiếc y quý giá đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên, bạch đức Thế Tôn:
«Con trị bệnh cho Quốc vương, trị bệnh cho Đại thần, hoặc được một quốc độ, hoặc được một tụ lạc. Cúi xin đức Thế Tôn cho một ước nguyện.»
Đức Phật dạy:
«Ta không hề cho ai ước nguyện mà vượt quá điều nguyện.»
Kỳ-bà Đồng tử lại thưa:
«Con xin một ước nguyện thanh tịnh.»
Đức Phật dạy:
«Nguyện thanh tịnh ấy là gì?»
Kỳ-bà Đồng tử thưa:
«Chiếc y quý giá này, con nhận được từ Vua Ba-la-thù-đề, giá trị bằng phân nửa nước. Cúi xin đức Thế Tôn ai mẫn, vì con nạp thọ. Từ nay về sau, nguyện đức Thế Tôn cho phép các tỳ-kheo nào muốn khoác y của đàn-việt cúng, hay y phấn tảo, thì tùy ý được mặc.»
Bấy giờ, đức Thế Tôn chấp thuận bằng cách im lặng. Kỳ-bà Đồng tử được đức Thế Tôn chấp thuận, liền đem bình nước rửa bằng vàng rửa tay đức Phật, rồi đem chiếc y rất quý giá dâng lên Ngài. Đức Phật vì lòng từ mẫn nên vì ông mà nhận. Kỳ-bà Đồng tử đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì Kỳ-bà Đồng tử nói các bài pháp, khiến sanh hoan hỷ, rồi Kỳ-bà Đồng tử lễ Phật cáo lui.
Bấy giờ, đức Thế Tôn vì nhơn duyên này tập hợp các Tăng tỳ-kheo, vì các tỳ-kheo, mà tùy thuận nói pháp, ngài dùng vô số phương tiện khen ngợi hạnh đầu đà, nhiếp trì oai nghi, thiểu dục tri túc, có trí tuệ, ưa nếp sống xuất ly. Đức Phật bảo các tỳ-kheo:
«Tất cả các loại y quý giá, y nầy là bậc nhất. Như bò cho ra sữa, trong sữa cho ra lạc, trong lạc cho ra tô, trong tô cho ra thục tô, trong thục tô cho ra đề hồ là tinh chất đệ nhất. Y nầy cũng như vậy, trong tất cả các loại y nó là đệ nhất. Từ nay về sau, cho phép các tỳ-kheo tùy ý khoác y của đàn-việt dâng cúng, hay y phấn tảo.»[5]
Sau này, mặc Phấn tảo y (pamsukùla)là hạnh đầu tiên trong 13 hạnh Đầu Đà (Dhutanga-niddesa) được tôn trọng gìn giữ một cách tự nguyện bởi một số vị Đại Đệ Tử của Đức Phật, đặc biệt là Tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Mahà Kassapa), người duy nhất trong Pháp Hội Linh Sơn thấu đạt ý nghĩa “niêm hoa vi tiếu” và được Phật truyền tâm ấn, vị chủ xướng triệu tập và chủ tọa Kỳ Kiết Tập Kinh Điển lần thứ nhất tại hang Thất Diệp (Saptaparna), trong núi Tỳ bà la (Vebhara) gần thành Vương xá (Ràjagaha) ba tháng sau khi Thế Tôn viên tịch, và vị được xem là Tổ Sư đầu tiên trong số 28 vị Tổ Tây Thiên (Ấn Độ).
Hạnh phấn tảo y:được thọ trì bằng cách thốt lên một trong hai lời nguyện này: “Tôi từ chối những y do gia chủ cúng” hoặc “tôi nguyện giữ khổ hạnh phẩn tảo y”.
Quần chúng hay tin Đức Thế Tôn cho phép Tỳ Kheo được mặc y áo cúng dường rất đỗi vui mừng bởi vì lâu nay họ mong mỏi như thế nên cúng dường chư Tăng rất nhiều y có khi chư Tăng chở cả xe về Tịnh Xá. Vì vậy, Đức Phật chế ra giới luật để hạn chế việc cúng và nhận Y:
“Khi Phật an trú tại một tinh xá có lầu gác trong rừng Ðại Lâm, nói rộng như trên. Bấy giờ, trưởng lão Nan Ðà và Ưu Ba Nan Ðà du hành các thôn xóm rồi chở về đầy xe các thứ vải vóc phẩm vật đã nhận được. Sáng sớm hôm ấy, Thế Tôn nghe tiếng xe chở nặng, biết mà vẫn hỏi các Tỳ kheo: “Tiếng xe gì vậy?”.
Các Tỳ kheo bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn! Ðó là tiếng xe của trưởng lão Nan Ðà và Ưu Ba Nan Ðà du hành tại các thôn xóm đã nhận được nhiều vải vóc và phẩm vật chở về”.
Khi ấy, Thế Tôn bèn suy nghĩ: “Các đệ tử của Ta tìm cầu nhiều y vật đến như vậy nhỉ!” Sau đó vào một đêm mồng tám giữa mùa đông, tuyết sa rất lạnh, đầu đêm Thế Tôn mặc chiếc áo nhập vào thiền có giác, có quán, đến lúc nửa đêm cảm thấy hơi lạnh, Thế Tôn bèn mặc chiếc áo thứ hai, nhưng đến cuối đêm, lại cảm thấy lạnh hơn, bèn mặc thêm chiếc áo thứ ba. Thế rồi, ngài suy nghĩ: “Các đệ tử của Ta chỉ cần mặc ba y (áo) là đủ ngăn ngừa những khi quá lạnh, quá nóng, đề phòng muỗi mòng, che khuất sự hổ thẹn, không làm tổn thương đến thánh thể. Nếu ai không chịu nổi rét lạnh thì Ta cho phép mặc thêm những chiếc áo cũ kĩ”.
Thế rồi, trải qua đêm đến sáng sớm, Thế Tôn bèn đi đến chỗ các Tỳ kheo Ngài chế giới mỗi Tỳ Kheo chỉ nên sắm và mặc ba Y:
“Từ hôm nay trở đi, Ta cho phép các Tỳ kheo chỉ cất giữ chừng ba y. Nếu được vải mới thì may một y Tăng già lê hai lớp, một y Uất đa la tăng một lớp và một y An đà hội một lớp. Nếu ai không kham chịu lạnh thì Ta cho phép tùy ý mặc thêm những chiếc y cũ”.[6]
Nhưng một khi Tỳ Kheo được nhận vải hoặc y từ các đàn việt cúng dường thì cần phải có một kiểu mẫu thống nhất cho Y Phục Tỳ Kheo vì Tăng chúng là thanh tịnh hòa hợp. Câu chuyện sau đây giới thiệu Tôn giả Anan là “nhà tạo mẫu” áo cà sa theo sự hướng dẫn của Đức Thế Tôn:
“Một lần nọ Đức Phật cùng tôn giả Anan đang đi trên đồi ngó xuống dưới chân đồi thấy có nhiều thửa ruộng, Đức Phật hỏi Tôn giả Anan rằng: “Này Anan, con có thể làm cà sa hình như những thửa ruộng này không?”. Tôn giả Anan bạch Phật rằng: “Dạ, để con làm thử xem sao”. Cách vài hôm sau, Tôn giả Anan lấy vải cắt nối miếng vuông miếng dài may.
Nói đến Ðại đức Ananđa, chúng ta không thể bỏ qua đức tính thông minh và óc thẩm mỹ. Chính nhờ những nét độc đáo này mà Ðại đức đã trở thành một cộng sự viên đắc lực của Ðức Phật. Ðiển hình là việc sáng chế giáo phục. Câu chuyện như vầy:
Một lần nọ, Ðại đức theo Ðức Phật qua tỉnh Ðắc-khi-na-ghi-ri. Ðức Phật nhìn thấy thửa ruộng của nông dân xứ Magatha vuông dài, bốn cạnh bằng nhau, lại thêm có những đường nhỏ thông ngang dọc trông thật đẹp mắt, bèn hỏi Ðại đức Ananđa:
– Này Ananđa, ngươi có thể chế biến giáo phục cho chư Tăng theo hình thức thửa ruộng này được không?
– Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử sẽ cố gắng.
Sau đó, Ðại đức Ananđa đã cắt may được một mẫu y có hình thức như thửa ruộng đệ trình Ðức Phật. Ðức Từ Phụ vô cùng hoan hỉ và chính thức ban hành giáo phục cho tăng già.
Nhơn tiện, Ðức Phật khen ngợi Ðại đức Ananđa giữa tăng chúng:
Này các tỳ kheo, Ananđa là người thông minh, có óc thẩm mỹ, trí lực bén nhạy, có khả năng hiểu biết toàn diện những điều Như Lai chỉ nói vắn tắt.”[7]
Từ đó mỗi vị Tăng sĩ có Tam Y: Một là An Đà Hội, hai là Uất Đa La Tăng, ba là Tăng Già Lê may theo hình thức như thửa ruộng.
Y An Đà Hội: Antarivāsaka (Pàli), Antaravāsaka (Sanskrit): Nội y, Y mặc bên trong. Y An Đà Hội chỉ có 5 điều, cả tấm y gồm mười miếng ráp, cứ một miếng dài, một miếng ngắn theo chiều ngang, đếm theo chiều dọc là năm miếng, theo chiều ngang là hai miếng.
Y Uất Đa La Tăng: Uttarāsangha (Pàli), Uttarasamgha (Sanskrit): còn gọi là Tăng Y, y mặc ở giữa. Y này gồm 7 điều, chỉ mặc khi thực hành các việc như thọ trai, giảng kinh, lễ bái, tụng niệm.. . nên còn gọi là Nhập Chúng Y, hay Phú Tả Kiên Y (y che vai trái). Y này dùng vải cắt thành 21 miếng (2 miếng dài thì 1 miếng ngắn),ráp sao cho đếm theo chiều dọc của tấm y thì có bảy miếng, nên gọi là y bảy điều.
Y Tăng Già Lê: Sanghāti (Pàli), Samghāti (Sanskrit): còn gọi là Đại y, áo cửu điều, y cửu điều, áo tăng già lê, y tăng già tri, y Già Chi. Đây là y đắp ngoài của chư tăng, là Cà sa 9 đến 25 điều, được may bởi 9 mảnh vải hàng dài, mỗi hàng hai miếng dài một miếng ngắn. Y này chỉ được đắp khi đi đến chốn đông người, đi trì bình, nhập chúng thọ trai, khi lễ tháp, khi nghe kinh, khi lễ cao tăng.
Nạp y chỉ chung bộ gồm 3 Y, Y đắp ngoài là Y Tăng Già Lê, Y đắp gìữa là Y Uất Đa La Tăng và Y mặc trong là Y An Đà Hội.
Tùy theo công việc đang làm mà mỗi vị Tỳ Kheo đều phải mặc Y thích hợp, không nên lơ là sơ sót. Tỳ Kheo nên luôn tự ý thức để giữ gìn cho trọn vẹn cả đời. Điều này cũng không phải dễ dàng vì ngay một người có trí nhớ siêu tuyệt như Ngài Anan mà có lúc cũng đã quên mặc Y thích hợp. Chuyện kể rằng một hôm A Nan Ða đi khất thực quên mặc Y tăng Già Lê, được một đồng đạo nhắc khéo: “Phật đã phê chuẩn bậc xuất gia phải luôn luôn mặc đủ tam Y, khi đi vào làng xóm!” A Nan Ða liền vui vẻ cảm ơn vị đạo hữu ấy, và phân trần rằng: “Bần Tăng chỉ quên thôi, chứ không cố ý bất tuân phép Phật”. Rồi ông đi mặc Y Tăng Già Lê. Kể từ đó, những phép tắc về cách vận y phục cho trang nghiêm của một Tỳ khưu khi ra khỏi tịnh xá, do đức Phật phê chuẩn, đã được ông thi hành từng chi tiết.[8] Ngày nay, các vị Tỳ Kheo Nam Tông vẫn duy trì việc mặc Y tương thích trong mọi thời, mọi sinh hoạt, các Tỳ Kheo Bắc Tông thì tùy theo điều kiện thời tiết và để thuận tiện cho việc di chuyển đi lại sinh hoạt nên lúc ở trong chùa chủ yếu là mặc bồ đồ vạt hò, lúc đi ra đường hoặc đi sinh hoạt thì mặc áo nhật bình, áo thông y, chỉ đặc biệt những lúc tụng kinh, bố tát, thuyết Pháp, đảnh lễ chư Tôn Túc, Trưởng Lão, thọ Quá Đường, tác pháp Yết Ma,…nơi chánh điện tôn nghiêm, đàn tràng thì mới mặc áo tràng và Y mà thôi. Tất cả các loại Y phục Tăng sĩ nêu trên đều là hoại sắc, có màu vàng, đà, xám hay nâu, đều là đơn giản, trang nghiêm, thanh tịnh.
Vị “tạo mẫu” có óc thẩm mỹ ấy cũng là người thực hiện thiết kế tài tình. Một lần nọ, đức Bổn Sư ra lệnh cho A Nan Ða trông nom phân phối vải, và may y phục cho các hàng Tăng chúng, A Nan Ða đã thực hiện công việc này một cách tốt đẹp, nên được đức Phật khen ngợi trước Tăng chúng rằng: “A Nan Ða là người khéo léo, ngay cả trong lĩnh vực khâu vá! Một Sa môn đủ đức hạnh là người biết tự khâu vá mảnh y của mình, không để chỉ viềng bung ra, và không bao giờ bị chỉ trích là phí phạm vật dâng cúng của các hàng thiện nam tín nữ”[9]
Mỗi vị Sa Di khi đăng đàn thọ giới Tỳ Kheo phải chuẩn bị 6 món vật dụng của Tăng sĩ là: Ba y (Pamsukùla – Civara), (nìluppala), kim (cùsi), chỉ (bandhana), dao cạo (vàsi), túi lược nước (parissàvana), tọa cụ (Nisidana – Ni Sư Đàn-y tùy tọa, y phu tọa, y sấn túc). Sau khi thọ Cụ Túc giới hay Đại giới (Upasampadà) trở thành Tỳ Kheo (250 giới) hoặc Tỳ Kheo Ni (348 giới) mới đủ tư cách mặc ba Y.
Tỳ-kheo: Trong 7 chúng đệ tử (Tỳ Kheo, Sa Di, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di) của Phật thì Tỷ kheo được xem là trưởng tử của Như Lai, chiếm một địa vị tôn quý nhất trong hàng ngũ đệ tử, cả tại gia lẫn xuất gia. Tiếng Pàli Bhikkhu được phiên âm là Tỷ kheo, tiếng Sanskrit Bhiksu được phiên âm là Bí-sô, Bí – su. Hai chữ Bhikkhu và Bhiksu cùng một nghĩa và được dịch ý là Khất sĩ, Bố ma, Phá ác.
– Khất sĩ: Trên ăn mày chánh pháp của Phật dưới cầu xin tứ sự cúng dường (ăn, ở, mặc, thuốc men) của đàn việt, Phât tử nên gọi là Khất sĩ. Xin ăn để sống và trưởng dưỡng giới thân huệ mạng.
– Bố ma: Là làm cho ma sợ. Tỷ kheo vượt ra ngoài Tam giới, vượt ra ngoài vòng kiểm soát của ma rồi thuyết pháp độ sanh khiến cho Phật quốc mở rộng ra và vương quốc của ma thu hẹp lại. Khi vị Sa Di đăng đàn thọ giới Cụ Túc các cõi trời đều hay biết, khi vị Tỳ Kheo tham thiền quán tưởng quả đất rung chuyển khiến ma tưởng thế giới sẽ vỡ tan bởi đạo lực tu hành của Tỳ Kheo.
– Phá ác: Tỷ kheo tu giới, định, tuệ, có thể phá trừ hai thức ác là Kiến hoặc và Tư hoặc, diệt trừ phiền não nghiệp cấu, lòng hằng thanh tịnh, đoạn trừ tất cả các điều ác, thành tựu tất cả hạnh lành nên gọi là Phá ác.
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu tại sao Đức Phật chọn mẫu y Phục cho hàng Tu Sĩ xuất gia Phật Giáo có hình thức như thửa ruộng? Thiển nghĩ, sự lựa chọn này có những ý nghĩa nổi bật sau đây:
Thứ nhất, theo cách này sẽ tận dụng và tiết kiệm vải rất nhiều vì có thể gộp các miếng nhỏ lắp ráp lại để thành Y và khi hư miếng nào có thể thay miếng nấy được. Mỗi Phật tử có thể tùy khả năng mà cúng dường những mảnh vải lớn nhỏ đều được lợi ích. Đó cũng là sự đúc kết kinh nghiệm của các hành giả tu lâu năm trong rừng sâu thanh tịnh và tự lo lượm vải chằm khâu may mặc cho mình.
Thứ hai, Tăng là phước điền vô thượng để hàng thiện tín, cư sĩ quy ngưỡng, đảnh lễ cúng dường như Nghi Thức Tụng Niệm Nam Tông có đoạn viết:
Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn.
Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian.
Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên.[10]
Tăng là những người xuất gia tu hành thanh tịnh, là Trưởng Tử của Như Lai, là Chúng Trung Tôn. Tăng thừa hành chánh pháp của Như Lai. Hầu hết các Phật tử biết đến Phật, biết đến Pháp cũng nhờ Tăng. Giả sử có những vị thiện tín Phật tử biết đến Pháp trước khi biết đến chùa và gặp Tăng tức là do đọc Kinh sách mà tỏ ngộ những lẽ mầu trong Đạo Pháp thì những sách ấy cũng do bao đời chư Tăng biên soạn, trước tác, gìn giữ, lưu truyền. Phật nhập diệt đã lâu bây giờ chỉ còn hình tượng, thời mạt pháp căn cơ chúng sanh phần nhiều bị lu mờ, nghiệp chướng buộc ràng mà giáo pháp lại cao siêu, huyền diệu, khó hiểu, khó ngộ, nếu không nhờ Tăng biết nương lối nào vào Đạo?
Thứ ba, Y có nhiều điều (nhiều mảnh) cũng như con đường tu tập hướng đến Đạo Quả Vô Thượng Bồ Đề có nhiều thứ lớp giai đoạn. Đức Phật đã trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp hành Bồ Tát Hạnh như chúng ta đã thấy trong Túc Sanh Truyện (Jataka). Mỗi hành giả phải liên tục tích lũy Phước đức, Công Đức, tương tục nhiếp niệm trong chánh pháp. Từ vô thỉ đến nay đã bao nhiêu kiếp rồi ai chẳng gây nhiều lỡ lầm tội lỗi cũng như mảnh đất tâm của chúng ta bỏ hoang vu đã lâu và ngập tràn cỏ dại thì mỗi người hãy liên tục nhổ cỏ và chăm sóc mảnh vườn tâm của mình và phải chờ đợi đủ thời tiết nhân duyên, đúng thời kỳ mới có thể thu hoạch được chứ không thể nôn nóng vội vàng đòi hỏi hưởng hoa thơm quả ngọt ngay được. Cũng vì thế các vị Thượng Tọa, Hòa Thượng thì mặc Đại Y đến 25 điều vì quý Ngài đã tích lũy được nhiều công đức còn những vị Tăng mới thọ giới thì mặc Đại Y 9 điều thôi. Nhìn vào Đại Y mặc trong lúc hành Lễ nơi chánh điện cũng có thể nhận biết được phẩm trật thứ lớp trong Phật Giáo.
Thứ tư, bậc xuất gia tu hành mặc áo nâu sồng hoại sắc cốt để che thân chứ không phải nghiêm sức và thường xuyên quán niệm nơi thân và Y áo đã cắt ái ly gia thoát tục của mình. Tỳ Kheo hoặc là mặc Y chắp vá được từ các mảnh vải rách ở đống rác, đống phân, bãi tha ma, hoặc là thọ nhận mọi loại vải dù là thô xấu cúng dường từ thiện tín rồi nhuộm đi để may mặc cốt sao có Y mặc mà thôi chứ không bận lòng phân biệt tốt xấu. Mỗi lần sờ lên đầu hay nhìn lại Y của mình mỗi vị Tỳ Kheo đều nhớ biết mình là người xuất gia mà lo tinh tấn với Đạo nghiệp nếu giãi đãi là uổng phí đời sống xuất gia, uổng phí của đàn na tín thí:
“Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lại nghiệp vô tì.”
(Người xuất gia là cất bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác hẳn thế tục, tiếp nối một cách rạng rỡ dòng giống của Phật, làm cho quân đội của ma phải rúng động khuất phục, với mục đích báo đáp bốn ân, cứu vớt ba cõi. Không như vậy thì chỉ là kẻ lạm xen vào hàng ngũ tăng sĩ, lời nói và việc làm trống rỗng, sơ suất, hưởng dụng một cách vô ích cúng phẩm của tín đồ, đường đi năm cũ thì một tấc một bước cũng không đổi dời, quàng hoảng suốt cả một đời thì còn lấy gì mà nương tựa và cậy nhờ? Huống chi tăng tướng đường hoàng, dung mạo khả quan, toàn do thiện căn đời trước gieo trồng mới có được cái quả báo đặc biệt ấy, vậy mà chỉ nghĩ đến việc ngồi thẳng, khoanh tay, chứ không biết quí trọng từng tấc bóng của thì giờ. Nhưng đạo nghiệp mà không chịu nỗ lực thực hành thì đạo quả sẽ không có nhân tố thành tựu. Như vậy đâu phải chỉ một đời này qua đi một cách vô ích, mà mọi việc trong những đời sau cũng không được bổ ích gì.)[11]
Thứ năm, mang bộ Y nhiều điều để nhớ nghĩ ơn sâu dày của đàn na tín thí, trong cuộc sống này ai cũng bận rộn lo toan xoay vần với cái ăn cái mặc. Tỳ Kheo được tứ sự cúng dường để thanh thản an tâm lo tu học đó là nhờ công lao khó nhọc biết bao người. Vậy mỗi Tỳ Kheo phải luôn niệm tưởng và làm sao cho xứng đáng với công ơn đó:
“Thân phi nhứt lũ, thường tư chức nữ chi lao, nhựt thực tam xan, mỗi niệm nông phu chi khổ”
(Thân mặc một chiếc áo thường nghĩ về sự cực nhọc của người đan sợi vải, ngày ăn ba bữa luôn nhớ đến nỗi khổ sở của người nông dân).
Y áo cà sa có nhiều ý nghĩa cao quý như thế. Người mặc Y áo phải làm sao xứng đáng là một vị Tăng tiếp nối gia phong ba đời mười phương chư Phật. Y Bát là bảo vật truyền thừa trong thiền môn. Hình ảnh chư Tổ Sư, chư Tăng phụng hành chánh pháp Như Lai ba y một bát đơn sơ nhưng thanh thoát vân du tự tại hóa độ chúng sanh được mô tả bằng những vần thơ tuyệt đẹp:
“Nhứt bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Kỳ vị sanh tử sự,
Thuyết pháp độ xuân thu.”
“Một bát cơm ngàn nhà,
Một thân vạn dặm xa.
Chỉ vì chuyện sanh tử,
Nói Pháp độ người qua.”
Thật là dung dị và cũng thật là tuyệt diệu! Một bình bát nhờ cơm ngàn nhà để sống, ba bộ Y che thân qua bao độ Xuân Thu, bước chân xuất thế đi qua khắp hang cùng ngõ hẻm cuộc sống, chỉ vì “Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp”, độ mọi người ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Do đó người xuất gia khi đã ra ngoài nhà thế tục thì phải chuyên lo tu tập để đoạn trừ phiền não và thoát ly mọi buộc ràng thì không bận lòng chăm chút đến việc ăn mặc thường tình. Người thế tục hay lo phấn son trang điểm trau chuốt bề ngoài cho đẹp đẽ thơm tho, sang trọng vì có câu rằng: “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”. Khi đến ngày chủ nhật hay ngày nghỉ, nhiều người say sưa mua sắm (shopping) chạy theo thời trang (model) kiểu nọ kiểu kia cho đẹp mắt, có người sắm đến hàng chục bộ đồ treo chật nhà, có những bộ đồ chưa bao giờ mặc đến mà quên đi trong cuộc đời còn có nhiều người đói rách lang thang. Đó cũng là một lạc thú thế gian, một quan niệm hạnh phúc chật hẹp, tư kỷ như lời mô tả của nhà thơ Chế Lan Viên:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chật hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Riêng đến ngày thọ Bát Quan Trai thì người Phật tử tập dần nếp sống đơn giản tịnh hạnh, không nghĩ đến việc chăm sóc vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài của mình, “không trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa” mà lo tu dưỡng tâm trí, trau dồi vẻ đẹp đạo hạnh bên trong.
Vẻ đẹp bên ngoài phu du giả tạo như hoa sớm nở chiều tàn có gì bền chắc, hương thơm phấn sáp sẽ nhanh chóng tàn phai, chỉ có vẻ đẹp bên trong mới đáng quý, hương thơm đạo hạnh mới lan tỏa rộng xa và có sức ảnh hưởng tốt đẹp để mọi người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ “Hương các loại hoa thơm, Không ngược bay chiều gió, Nhưng hương người đức hạnh,Ngược gió khắp tung bay “[12]
Tẩt cả đều bị luật vô thương chi phối, tấm thân tứ đại, ngũ uẩn nhân duyên giả hợp, hợp rồi tan có gì quý giá để chúng ta phải bận tâm trau chuốt? Hãy nghe lại lời cảnh tỉnh của Thái Tử Tất Đạt Đa với Công Chúa Gia Du Đà La:
“…Chúng ta sẽ già yếu và xấu xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những lớp tro bạc. Ôi! mắt trong của em rồi sẽ mờ đục! Môi đỏ của em rồi sẽ úa màu!… Ta nghe trong ta, trong em và trong cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ, dưới sức tàn phá cảu búa thời gian, tất cả những gì quý báu của đời người… chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng, những bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương!”.[13]
Thái Tử Tất Đạt Đa cũng nhận thấy sự giả dối thay hình đổi dạng nhanh chóng của các nàng cung nữ đầu hôm thì xiêm y kiều diễm, phấn sáp hương nồng đến giữa đêm mệt nhoài nằm ngủ mồ hôi nhễ nhại, phấn sáp trôi tan, xiêm áo trễ tràng, sắc nhạt hương tàn. Vì thể nhận cái giả dối băng hoại của thân người và kiếp người nên Thái Tử đã xuất gia để tìm những giá trị chân thực, thoát ra ngoài vòng hoại diệt khổ đau. Khi bị ma nữ quấy phá trong những đêm Thiền định cũng như sau này khi dạy mọi người lìa tham ái, chấp thủ nơi thân mình Đức Phật thường dạy:
“Thân người là túi đựng đồ dơ”
Thiền Sư Vạn Hạnh đời Lý cũng đã cảnh tỉnh mọi người trong bài kệ “Thị Tịch”:
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời…
Vậy thì ngày nay những người xuất gia một khi đã “Hủy hình thủ khí tiết, cát ái từ sở thân, xuất gia hoằng Phật đạo, thệ độ nhất thiết nhân“, (Bỏ hình giữ khí tiết,lìa ái, xa người thân ,xuất gia truyền Phật Ðạo, nguyện độ hết chúng nhân) thì phải biết sống thiểu dục tri túc, đạm bạc và cao thượng, biết hạn lượng tiết chế trong 3 việc: ăn, mặc và ngủ. Mặc chiếc áo nâu sồng thanh đạm để quán tưởng về lẽ vô thường, bất tịnh, duyên sanh. Đã là Tỳ Kheo mà còn phóng tâm trau chuốt y áo cho đẹp đẽ và ưa thích sự lễ lạy cúng dường là còn phàm tục, chấp ngã, ưa giả danh, huyễn tướng, tham cầu lợi dưỡng.
Tỳ Kheo sống giữa đời “Như ong đến với hoa, Không hại sắc và hương, Che chở hoa, lấy nhụy, Bậc Thánh đi vào làng” [14] như hoa sen ở trong bùn mà không dính bùn, với chí khí “xuất trần thượng sĩ”, “cư trần bất nhiễm trần”, vừa nhập thế để độ sanh, vừa xuất thế, thoát ly tam giới nhẹ nhàng thanh thản, ung dung tự tại. Xưa kia ở Ấn Độ có Thái Tử Tất Đạt Đa bỏ cung vàng điện ngọc đi tu, ở Việt Nam cũng có Vua Trần Thái Tông và bao vị vua đã “xem ngai vàng như đôi dép bỏ”. Hạnh cao qúy của Tỳ Kheo là hạnh xả ly như Ðức Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc để trở thành một vị Sa môn, lãnh thọ giáo pháp của Phật thì phải xả bỏ của cải thế gian, mong cầu vừa đủ, giữa ngày ăn một bữa, dưới gốc cây ở một đêm, cẩn thận không trở lại lần thứ hai. Ðiều làm cho người ta ngu muội là ái và dục”.[15] Vị Tỳ Kheo luôn quán chiếu Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân trong đó có đoạn:
Ðệ thất giác ngộ
Ngũ dục quá hoạn
Tuy vi tục nhân
Bất nhiễm thế lạc
Thường niệm tam y
Ngõa bát pháp khí
Chí nguyện xuất gia
Thủ đạo thanh bạch
Phạm hạnh cao viễn
Từ bi nhất thiết.
Ðiều thứ bảy giác ngộ rằng: “Năm thứ dục lạc đích thị tội lỗi. Nên tuy ở đời cũng không đam mê lạc thú thế tục, thường nhớ y bát, chí nguyện xuất gia, thanh bạch giữ đạo, phạm hạnh cao xa, bủa lòng từ bi ra khắp tất cả”.[16]
Có xả ly mới giải thoát được còn chấp thủ là còn buộc ràng. Nếu bỏ nhà cửa, tài sản thế gian mà dính chặt vào chùa to, phật lớn, địa vị, phẩm vật cúng dường, y áo,… như vậy thì còn gì là đi trên đường “nghịch lưu” để hướng đến Niết Bàn. Cửa Niết Bàn rất hẹp nếu còn mang theo những thứ ấy thì sẽ vào không lọt như Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dạy:
“…Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc nên ta không thể mang theo một hành lý nào mà hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cái ý niệm về tôi, về ta, cũng không thể mang theo vào được. Cái ta càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết hễ hữu ngã thì luân hồi mà vô ngã là Niết bàn …” [17]
Tuy nhiên, không phải mọi Sa Môn đều sống với lý tưởng thanh cao như vậy, Đức Thế Tôn cũng đã dạy trong hàng Tăng chúng có rất nhiều hạng Tỳ Kheo như:
Sa Môn chiên đà la: hạng Sa môn thấp hèn, cầu lợi dưỡng.
Sa Môn bại hoại: Cặn bã, hư hoại, ví như hột giống hư gieo vào đất trọn chẳng mọc mầm kết trái, cũng vậy, Sa Môn bại hoại dầu ở trong Phật pháp mà chẳng sanh thiện căn chẳng được quả Sa Môn.
Trấp Sa Môn: Ví như cái trấp sơn vẽ do thợ khéo làm thành, trong ấy đựng các thứ bất tịnh hôi thúi.Cũng vậy, trấp Sa Môn ngoài hiện thành tựu tợ hạnh Sa Môn mà nội tâm nhiều thứ cấu uế hành những nghiệp ác.
Sa Môn câu lan trà: Ví như hoa câu lan trà màu sắc sáng đẹp nhưng cứng như gỗ đá có mùi hôi thúi như trét phẩn.Cũng vậy, Sa Môn câu lan trà hiện tợ hạnh Sa Môn mà có thô bạo ngạo mạn tự cao ác bất tịnh, họ lại phá giới phá chánh kiến.
Sa Môn cầu lợi: Sa Môn cầu lợi long thường bỏn xẻn bị tham che lấp, nơi lợi dưỡng đã được lòng không biết đủ, nơi tài vật người hy vọng muốn được, khi đến thành ấp tụ lạc thì vì lợi dưỡng chẳng vì thiện phap, che giấu tội ác.
Sa Môn cỏ dại: Ví như trong ruộng lúa mọc cỏ dại giống cây lúa khó phân biệt được, nông phu cho là lúa tốt, đến khi trổ bông mới biết chẳng phải là lúa. Cũng vậy, Sa Môn cỏ dại ở trong đại chúng giống như người trì giới có đức hạnh, thí chủ thấy cho là Sa Môn, mà kẻ si nầy chẳng phải Sa Môn tự nói là Sa Môn, chẳng phạm tự xưng phạm hạnh, từ trước đã bại hoại rời trì giới cũng chẳng vào số Tăng chúng, trong Phật pháp không có trí huệ mạng sẽ đọa ác đạo như cỏ dại ở trong ruộng lúa.
Bồ sanh Sa Môn: Ví như cỏ lác mọc trong ruộng lúa, vì nó chẳng chín nên gọi là bồ sanh, vì nó không có hột bị gió thổi bay nó không có sức cứng nặng, tợ lúa mà chẳng phải lúa.Cũng vậy, bồ sanh Sa Môn thân hình tợ Sa Môn mà không người dạy bảo không có đức lực bị ma phong thổi bay.
Hình tợ Sa Môn: Ví như có thợ khéo dùng vàng mạ lên đồng màu sắc tợ vàng mà giá trị chẳng đồng với vàng, lúc chà mài mới biết chẳng phải vàng. Cũng vậy, người hình tợ Sa Môn ưa tự nghiêm sức thường tắm rửa đắp y tề chỉnh, nghi thức Sa Môn tất cả đều đủ, đến đi cúi ngước thường đúng nghi thức, nhưng người nầy thường bị tham sân si làm hại, cũng bị lợi dưỡng cung kính tán thán làm hại, cũng bị ngã mạn tăng thượng mạn tất cả phiền não làm hại, dầu được người quí trọng mà y không trọng pháp, thường siêng trang nghiêm thân mà chỉ cầu ẩm thực chẳng cầu Tháng pháp, chẳng lo sợ đời sau, thấy sự tôn trọng hiện tại chẳng phải tương lai tôn trọng, chỉ lo mập béo thêm dựa nơi lợi dưỡng chẳng phải dựa nơi pháp, nhiều thứ hệ phược, siêng tạo gia nghiệp thuận lòng người tại gia cũng tùy theo sở thọ của họ, lúc khổ thọ khổ lúc vui thọ vui, bị ghét thương làm hại, nơi pháp Sa Môn họ không có lòng muốn thiệt hành rời các nghi thức, tất sẽ đọa địa ngục ngạ quỷ súc sanh.
Mất huyết khí Sa Môn: Ví như có nam tử hay nữ nhơn, hoặc đồng nam hay đồng nữ bị phi nhơn ăn mất huyết khí.Người nầy gầy yếu xanh xao vì bị mất huyết khí, các thứ thuốc men chú thuật và dao gậy chẳng chữa trị được, tất phải chết.Cũng vậy, Sa Môn không có huyết khí giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến và huyết khí từ bi hỷ xả, cũng không có huyết khí bố thí điều phục hộ thân khẩu ý nghiệp, cũng không có huyết khí an trụ tứ thánh chủng, không có huyết khí nghi thức Sa Môn, không có huyết khí tịnh thanh thân khẩu ý.[18]
Học thuộc bộ Sa Di Giới và Sa Di Ni Giới thậm chí học thuộc cách viết mọi chữ Hán trong đó cũng như trải qua quá trình thử thách và thi đậu “Tuyển Phật Trường” đăng đàn thọ cụ túc giới để lãnh Pháp Phục Cà Sa tuy khó nhưng mà nhiều người làm được nhưng giữ gìn cả đời cho trọn vẹn cho xứng đáng với chiếc Cà Sa mới thật là điều vô vàn khó khăn. Vì vậy mới có nhiều hạng Sa Môn như vừa nêu trên. Đạo Phật nặng về phần tự giác, tự tri, tự xử và việc tẫn xuất Tu sĩ ra khỏi Tăng đoàn không phải là phổ biến cho nên có nhiều Sa Môn làm nhiều điều phi pháp vẫn tiếp tục trộm nghi tướng Phật, khoác áo Cà Sa. Nhưng một khi phạm giới bản thể Tăng không thanh tịnh, thực chất người ấy không còn là Sa Môn nữa. Trong trường hợp này, chiếc áo không làm nên người tu:
“Đầu trọc, không sa môn
Nếu phóng túng, nói láo.
Ai còn đầy dục tham,
Sao được gọi sa môn?”[19]
Và Đức Phật cũng dạy:
“Nầy Ðại Ca Diếp! Ta chẳng nói cạo đầu, đắp y gọi là Sa Môn, mà ta nói người có công đức và nghi thức đầy đủ gọi là Sa Môn.
“Nầy Ðại Ca Diếp! Thầy Sa Môn thân mặc ca sa tâm phải lìa tham sân si.Tại sao?Vì tâm không tham sân si ta mới cho phép mặc ca sa.
Nếu tâm có tham sân si mà thân mặc ca sa, trừ người chuyên tâm trì giới, còn những kẻ chẳng trì giới thì gọi là tiêu diệt ca sa”
“… nên biết phá giới Tỳ Kheo làm tổn mất bao nhiêu phước đức ấy của thí chủ.Nếu thọ thí chủ cúng thí rồi mà hành ác pháp thì tổn tín thí ấy.
Nầy Ðại Ca Diếp!Trong thời kỳ mạt pháp sẽ có Tỳ Kheo chẳng tu thân chẳng tu giới chẳng tu tâm chẳng tu huệ, ngu si như trẻ nít hướng đến tối tăm mà không biết, tâm họ chẳng điều phục nên thành Sa Môn cấu uế.
Nầy Ðại Ca Diếp!Như vậy, ta nói Sa Môn cấu, Sa Môn tội, Sa Môn siểm khúc, kẻ giặc trong hành Sa Môn.”[20]
“Nầy Ðại Ca Diếp!Có nhiều ác Tỳ Kheo phá hoại Phật pháp của ta chớ chẳng phải chín mươi lăm phái ngoại đạo phá hoại Phật pháp được.
Ví như sư tử là chúa muông thú, khi nó chết tất cả hổ lang điểu thú không thể ăn thịt nó được.Trong thây sư tử tự sanh các thứ trùng tự ăn thịt nó.
Cũng vậy, trong Phật pháp ta sản xuất các ác Tỳ Kheo như vậy, họ tham lợi dưỡng, vì lòng tham nên chẳng dứt ác pháp chẳng tu thiện pháp chẳng lìa vọng ngữ.Các Tỳ Kheo nầy có thể làm hư hoại Phật pháp ta.”[21]
Những người giả trang hình tướng Tăng mà sống cuộc đời trụy lạc như thế, thọ hưởng vật dụng của đàn na tín thí sẽ bị sa đọa rất nặng vì “tín thí nan tiêu”. Câu chuyện về bốn Thạch Nữ sau đây là lời cảnh tỉnh cho những ai trộm mang hình dáng Sa Môn:
Hoàng hậu vợ vua Ba Tư Nặc (Ấn Độ) đi nghe Phật thuyết pháp, thường ngồi kiệu do bốn Thạch nữ khiêng (Thạch nữ là người ái nam, ái nữ, không có dục tính, tâm tình thô bạo, thân thể cứng như đá). Phật dạy: “Một kiếp nọ có bốn vị Bà La Môn xuất gia nhưng lười biếng chẳng chịu tu hành; họ mưu mô với nhau, ba người ngồi dưới gốc cây giả dạng thiền định, còn người thứ tư vào thành nói rằng có ba vị A La Hán đã đắc quả, ai cúng dường thì được nhiều phước báu. Họ cứ thay phiên nhau mà loan truyền như vậy, dân chúng kéo đến cúng dường rất đông, do đó bốn người được no đủ. Trong số thí chủ có một bà già nghèo khổ, làm lụng khó nhọc mới có đủ cơm ăn, nhưng ngày nào cũng nhịn một bát cơm để cúng dường bốn vị này, nhận mấy vị này làm Thầy, hầu hạ, quét dọn với một tâm ý hoàn toàn thanh tịnh. Do phước báu tốt đẹp, kiếp này bà sinh làm Hoàng hậu, giầu có xinh đẹp. Còn bốn vị Bà La Môn tu hành giả dối thì tái sinh làm Thạch nữ khiêng kiệu hầu bà để trả nợ tiền căn.” Nghe Phật nói xong, Hoàng hậu sợ quá, không dám bắt bốn vị Thầy cũ của mình ở kiếp trước phải khiêng kiệu, hầu hạ cực nhọc, mà cho họ được tự do, thoát vòng nô lệ. Nhưng được tự do, bốn người Thạch nữ lại không sao kiếm được miếng ăn, vì dân chúng chẳng ai muốn mướn họ. Bị đói khát, họ lại đến xin Hoàng hậu cho tiếp tục khiêng kiệu như trước.
Khi xưa cũng có chuyện thợ săn mặc áo cà sa giả làm nhà sư hiền lành để các loại súc vật không sợ sệt trốn chạy mà bắn chết các con vật ấy để làm thịt ăn. Ngày nay ở Việt Nam có tệ trạng “giả nhà Sư đi khất thực” họ là những người không phải tu sĩ, mặc áo nhà Sư đi khất thực phi pháp để về ăn tiêu, cờ bạc rượu chè hoặc là có tình trạng “Tân Đầu Lô”, là các “Ngài” không biết tu chùa nào, thọ giới ở đâu?…mà hễ chùa nào có cúng dường trai Tăng là “Quý Ngài” đến không cần mờithỉnh, trong cuốn sổ tayhay nơi cù chỏ cánh tay của “Quý Ngài” có ghi chú chùa nào làm lễ, cúng giỗ ngày nào…Thời mạt pháp có những hạng người, bằng nhiều cách khác nhau, dùng chiếc áo cà sa để gian dối tìm kế sanh nhai hoặc là để hưởng thụ vật chất là điều tệ hại đi ngược lại Phật Pháp.
Ngay từ thời Đức Phật còn có Đề Bà Đạt Đa là đệ tử xuất gia của Phật lại muốn giết Phật để lên ngôi Pháp Vương lãnh đạo Tăng đoàn và số lượng Tăng sĩ theo Đề Bà Đạt Đa cũng không phải là ít huống chi là ngày nay đã cách xa Phật hơn 2600 năm, Phật Pháp suy vi, văn minh vật chất tăng trưởng sản sinh bao nhiêu dục lạc cám dỗ người tu, ma quân trá hình khắp nẻo để lung lạc Tăng chúng đưa vào ma đạo. Trong kinh Đại-Bát Niết-bàn, trước khi nhập diệt, đức Phật ân cần chỉ dạy lần cuối, lưu ý cho Bồ-tát Ca-Diếp và các Thánh-chúng rằng trong hàng chư tăng Thinh-Văn vẫn có giả danh tăng và có chơn-thiệt tăng, có Trì-giới tăng và Phá-giới tăng, có hàng Tỳ-kheo Bồ-tát đáng tôn trọng của Phật, mà cũng có ma hóa hình Phật để chực chờ phá hoại Chánh-pháp của Như-lai:
“Này Ca Diếp! Sau khi ta vào Niết Bàn bảy trăm năm thì ma ba Tuần này dẫn dần sẽ hủy hoại, nhiễu loạn chánh pháp của ta. Ví như người thợ săn thân mặc pháp phục, Ma vương Ba Tuần cũng lại như vậy, hóa làm hình dáng Tỳ kheo, hình dáng Tỳ kheo ni, hình dáng Ưu bà tắc, hình dáng Ưu bà di. Vua ma cũng lại hóa làm thân Tu đà hoàn… cho đến hóa làm thân A la hán và sắc thân của đức Phật. Ma vương dùng hình tướng hữu lậu này hóa làm thân vô lậu mà hủy hoại chánh pháp của ta.”[22]
Bởi vậy cho nên trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như lai” (Nếu dùng sắc thấy ta, nương âm thanh mà tìm ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai).
Điều này đã được chứng minh qua câu chuyện giữa Tôn Giả Ưu Ba Cúc Ða và ma Ba Tuần. Sau khi Tôn Giả đã chiết phục điều phục được ma Ba Tuần, Ma Ba Tuần vui mừng nhảy nhót thưa Ngài rằng:
– Ngài khéo giúp con khởi tâm hoan hỷ. Thật là ân đức lớn. Nay xin Ngài hãy cởi mở vòng thây chết này.
Ngài bảo:
– Trước hết, Ta có một điều kiện mà ngươi phải làm, rồi sau đó mới cởi mở vòng thây chết. Từ đây về sau đến khi Phật pháp diệt tận, Ta không muốn nghe rằng ngươi vẫn còn não loạn chư tỳ kheo.
– Xin nghe lời dạy của Ngài.
– Ta còn một việc muốn ngươi làm. Ta tuy thấy pháp thân của đức Như Lai mà chưa từng thấy sắc thân vi diệu của Ngài. Ngươi hãy vì Ta mà hóa hiện làm thân Phật để Ta khởi tâm ái kính.
– Con cũng có một điều kiện. Lúc con hóa hiện làm thân Phật, xin Ngài chớ lạy con. Vì oai đức Ngài cao cả như voi lớn, còn con thì như cây Ỷ Lan. Voi lớn nếu dẫm đạp thì cây đó tan nát.
– Ta sẽ không lạy ngươi.
– Ðợi một lát, con sẽ vào rừng hóa hiện làm thân Phật như lúc xưa con đã từng gạt trưởng giả Thủ La.
Sau đó, Ngài cởi mở vòng thây chết cho ma vương, rồi khởi niệm muốn thấy thân Phật. Ma vừa vào rừng liền hóa thân làm Phật có đầy đủ tướng hảo trang nghiêm hào quang sáng chói. Hóa hiện làm thân Phật xong, ma vương lại dùng thần thông hóa nhiều thân làm ngài Xá Lợi Phất đi bên trái Phật, ngài Mục Kiền Liên đi bên phải Phật, ngài A Nan đi theo sau, ngài Ma Ha Ca Diếp, ngài Tu Bồ Ðề, v.v… một ngàn hai trăm vị đại A La Hán đi xung quanh Phật, rồi từ trong rừng tất cả đi ra, đến nơi ngài Ưu Ba Cúc Ða. Bấy giờ, Ngài liền chắp tay chân thành quán chiếu và nói kệ rằng:
“Ôi hởi quỷ vô thường
Không có tâm thương xót
Mà hủy hoại như thế.
Thân Phật là như thế
Vẫn hoại vì vô thường.”
Ngài nói kệ xong, chí tâm quán chiếu thân Phật mà quên đi lời hứa, nên đột nhiên năm vóc gieo xuống đất lễ kính. Ma vương thấy thế, thưa:
– Sao Ngài lại thất hứa!
Ngài hỏi:
– Hứa điều gì?
– Ngài hứa rằng sẽ không lễ lạy con, mà nay lại gieo năm vóc lễ bái!
Thế đó, thân Phật hảo tướng trang nghiêm có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp mà Ma vương còn giả được huống nữa là Tỳ Kheo!
Mùa Vu Lan năm trước, Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN đã nhắc nhở hàng Tỳ Kheo về ý nghĩa của chiếc Y và khuyến tấn mọi người lo trau dồi giới thân huệ mạng, gìn giữ Thanh Tịnh Tăng:
“Thời của y mà Đức Thích Tôn quy định tuy ngắn, nhưng cũng đủ để các chúng xuất gia tìm cầu phương tiện cần yếu cho sinh hoạt thường nhật; không quá dài khiến sự tích lũy không trở thành hoạt mạng xa hoa, hệ lụy vật chất và do đó xa rời Thánh đạo. Cũng không quá ngắn để khiến cho nhu yếu trở nên thiếu thốn. Đó tuy là hình ảnh sinh động của Tăng già thời Thích Tôn tại thế, nhưng ý nghĩa sâu xa vẫn còn giá trị cho đến ngày hôm nay.
Trên 25 thế kỷ của truyền thừa mạng mạch Tăng già, những di huấn của Thế Tôn không vì biến thiên của xã hội, chủng tộc, nhân sinh mà thay đổi. Dù rằng, cạnh tranh sinh tồn vẫn còn như là lẽ sống của muôn loài, tích lũy và thụ hưởng vẫn còn là động lực của tiến hoá xã hội; nhưng, chúng đệ tử của Thế Tôn sống y chỉ trên bốn Thánh chủng, không vì sinh kế tà mạng để tự buộc ràng mình vào guồng máy cạnh tranh, cho đến khi tự mình trở thành kẻ nô dịch cho thế gian sai sử mà không hay. Như thế, không những đã làm hủy hoại huệ mạng của chính mình, mà còn làm tổn thương đến Tăng thể.” [23]
Rồi đến mùa Phật Đản PL 2549 vừa qua, Ngài dạy:
“Chư vị Tôn đức, Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử hãy tinh cần tu học, nỗ lực quán chiếu để phát khởi tuệ giác như thật nơi mỗi chúng ta để thấy rõ nẻo chánh đường tà, không để danh lợi phù phiếm, quyền lực thế gian chi phối đánh mất lý tưởng thượng cầu hạ hóa của người con Phật.”[24]
Vậy mỗi Tỳ Kheo hãy lấy lời dạy Phật Tổ mà soi lại bản thân mình vì “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha tắc” (Soi lại nơi mình là bổn phận, không từ nơi người mà được- Tam tổ thực lục). Thiền Sư Hương Hải (thời vua Lê Dụ Tông – Việt Nam) dạy rằng:
“Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Tương lai diện thượng đổ sư nhan.”
(Hằng ngày quán lại chính nơi mình
Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh
Trong mộng tìm chi người tri thức
Mặt Thầy sẽ thấy trên mặt mình.)
Riêng bản thân tôi Y áo Cà Sa lại gắn liền với kỷ niệm ân tình với Sư Phụ. Thuở sanh tiền Người thường lo may Y Phục cho tôi. Tôi còn nhớ trước khi tôi thọ giới tại Đại giới đàn Ấn Quang tôi đến đảnh lễ xin phép Người khi ấy Người đang đau dưỡng bệnh ở Chùa Giác Uyển chờ nhập vào Bệnh Viện Chợ Rẫy, Người tặng cho tôi mấy xấp vải vàng Người đã thọ nhận những lúc Trai Tăng ở Quá Đường để may y áo với lon sữa và dạy:
“Còn mấy ngày nữa là con sẽ thành Tỳ Kheo, thành Ông Thầy. Hãy làm một Ông Thầy nên thân nên thể. Luôn nhớ giới luật mà hành trì theo. Tui già yếu sống nay chết mai không biết thế nào. Con là người đầu tiên trong chúng điệu lớp sau này thọ giới, hãy tu học làm sao làm gương cho đàn em noi theo và không phụ của đàn na tín thí. Làm một Ông Thầy không nên dáng là hổ thẹn Tông Môn”
Rồi sau này, khi tôi đảnh lễ xin ý kiến của Người về nguyện vọng đi du học Ấn Độ của tôi, Người dạy: “Học Tàu, học Ấn, học Tây học gì cũng tốt, ở Việt Nam ở Nga, ở Mỹ cũng được, miễn làm sao còn giữ chiếc áo đó là được rồi”
Những năm tôi ở Ấn Độ, Người vẫn tiếp tục gửi áo qua cho tôi mặc.
Đệ tử xuất gia ngày xưa của Người đã nhiều người không “giữ được chiếc áo” và hoàn tục nhưng vẫn còn biết quý kính và hộ trì Tam Bảo. Như vậy vẫn tốt hơn là những người tiếp tục giữ chiếc áo mà không sống cho xứng đáng với Ý nghĩa cao quý của nó, dù vẫn còn hình tướng Sa Môn mà không theo đúng Giới Pháp của Sa Môn. Cho nên, nếu Tỳ Kheo nào cảm thấy nghiệp mình nặng không đủ sức để gìn giữ trọn vẹn phẩm hạnh xuất gia thì có thể hoàn tục để trả lại sự thanh tịnh cho Tăng chúng, điều này là thuận pháp để khỏi mang nợ đàn na tín thí chập chồng như trong Kinh Đại Bảo Tích có ghi: “…có năm trăm Tỳ Kheo xả giới hoàn tục.Các Tỳ Kheo khác quở rằng: Ở trong Phật pháp nếu chư Ðại Ðức bỏ mà hoàn tục là phi thiện là phi pháp.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: “Các ông chớ nói như vậy.Tại sao, vì làm như vậy gọi là thuận pháp.Nếu Tỳ Kheo chẳng muốn thọ của tín thí mà thối lui hoàn tục thì gọi là thuận pháp.Các Tỳ Kheo kia vì tâm tín giải nhiều nên sanh lòng hối lỗi.Họ nghe lời dạy trên kia rồi tự suy nghĩ chúng ta hoặc có thể hành bất tịnh hạnh mà thọ của tín thí, chúng ta phải sanh lòng hối lỗi thối lui mà hoàn tục.”[25]
Thưa Sư Phụ! Người đã về cõi Phật nhưng áo cà sa may từ mảnh vải Người cho, những chiếc áo Thầy chùa do Người may nay con vẫn còn giữ với tất cả tâm tình Người nhắn gửi. Lời dạy bảo ân cần của Người vẫn còn văng vẳng bên tai: “Hãy làm một Ông Thầy nên thân nên thể. Luôn nhớ giới luật mà hành trì theo”, “… ở Việt Nam ở Nga, ở Mỹ cũng được, miễn làm sao còn giữ chiếc áo đó là được rồi” là sự bảo hộ của Người tiếp cho con thêm định lực vững bước trong dòng đời dù có nhiều biến thiên nghịch cảnh, con xin nối tiếp bước đi Phật Tổ, Chư Tôn Đức nối chí Tông Phong và trong hành trang vượt qua dòng sanh tử con luôn mang theo chiếc áo Cà Sa bên mình với tâm niệm:
“Thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, phụng trì Như lai mạng, quảng độ chư chúng sanh” (Lành thay áo giải thoát, áo ruộng phước tối thượng, phụng hành lịnh Như lai, hóa độ cho tất cả)
Mỗi vị Sa Môn vào trong Giáo Pháp của Phật, mặc áo Cà Sa, ở trong chùa rồi sẽ tu tập tiến triển thăng hoa Đạo hạnh để được “Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai”, Nhà Như-Lai chính là tâm từ bi lớn đối với trong tất cả chúng sanh, y Như-Lai chính là lòng nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như-Lai chính là nhứt thiết pháp không. Đó mới thật là nơi an trụ còn tất cả những cái gì “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (Phàm ở đời, cái gì có hình tướng thảy đều là hư vọng). Chiếc áo Cà Sa và Tăng Sĩ cũng như tướng và thể, hình thức và nội dung. Chiếc áo không làm nên Thầy Tu nhưng Thầy Tu không thể rời chiếc áo. Rời y mà ngủ một đêm đã là phạm giới như lời Đức Phật dạy: “Nên biết rằng: Như Lai Ứng Cúng là người an lạc bậc nhất, xuất gia ly dục là niềm vui bậc nhất, tùy theo chỗ mà ở, lúc đi khất thực phải đem theo ba y và bát, ví như đôi cánh của chim luôn dính sát vào thân. Tỳ kheo các ông đã từ bỏ dòng họ cũ, vì lòng tin xuất gia, thế nên, hễ đi đến đâu phải đem pháp y theo bên mình, không nên lìa y qua đêm”[26]. Y Bát là dấu ấn của Phật Tổ. Mỗi vị Tăng sĩ hãy tinh cần tu học để làm chói sáng Cà Sa chứ đừng làm hoen ố, hủy hoại Ý nghĩa cao quý của chiếc Cà Sa mà phải chịu trầm luân muôn kiếp. Làm thế nào để xứng đáng mặc áo Cà Sa? Hãy luôn tâm niệm và thực hành lời dạy của Phật:
“Ai rời bỏ uế trược,
Giới luật khéo nghiêm trì,
Tự chế, sống chơn thực,
Thật xứng áo cà sa” [27]
Thích Đồng Trí
Chùa Lục Hòa,
Boston, Hoa Kỳ,
Mùa An Cư PL 2549
[1] Võ Đình Cường, Ánh Đạo Vàng, Chương V
[2] Nhớ ơn Phật, Nghi thức thọ trì, Hệ Phái Khất Sĩ
[3] Tứ Phần Luật, Phần III, Chương VI, Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm, Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng, Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
[4] Thanh Tịnh Đạo Luận, Chương II, Bhadantacariya Buddhaghosa, Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải
[5] Tứ Phần Luật, sđd, có thể tham chiếu Buddha the Gospel, The Regulations, By Paul Carus, Chicago, The Open Court Publishing Company tại địa chỉ: http://www.buddhistinformation.com/buddha_the_gospel.htm
[6] Luật Ma Ha Tăng Kỳ, Quyển thứ tám, Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La cùngSa Môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Phước Sơn, Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
[7] Tình đời, Ý đạo (Cuộc đời Thánh tăng Ananda), Hòa thượng Hộ Giác
[8] Theo Mahàvagga 8, 23, Ðại Phẩm Tạng Luật số 8, 23
[9] Theo Mahàvagga 8,12, Ðại Phẩm Tạng Luật 8, 12
[10] Nghi Thức Tụng Niệm, Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam, Tự Viện Liên Hoa, Irving, Texas USA ấn hành 2002
[11] Qui sơn Đại viên thiền sư cảnh sách, Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
[12] Kinh Pháp Cú, Phẩm Hoa, Thi Kệ số 54
[13] Phật Học Phổ Thông, Khóa Thứ Hai, Bài Thứ 3, Vô Thường, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
[14] Kinh Pháp Cú, Thi Kệ 49
[15] Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Chương III
[16] Kinh Bát Ðại Nhân Giác, Kinh Tám Ðiều Giác Ngộ của Bậc Ðại Nhân
[17] Vô Ngã là Niết Bàn, HT Thích Thiện Siêu
[18] Lược ghi theo Kinh Đại Bảo Tích,XIV Pháp Hội Bửu Lương Tụ, Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo, Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
[19] Pháp Cú Kinh, Thi Kệ 264
[20] Kinh Đại Bảo Tích, XIV Pháp Hội Bửu Lương Tụ, Phẩm Sa Môn Thứ Nhất, Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
[21] Kinh Đại Bảo Tích, XIV Pháp Hội Bửu Lương Tụ, Phẩm Sa Môn Thứ Hai , Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
[22] Kinh Đại Bát Niết Bàn, Quyển thứ bảy, Phẩm thứ chín: Tà Chánh, Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, Việt dịch:Tuệ Khai cư sĩ , Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
[23] Thông Điệp Vu Lan PL. 2548 của Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
[24] Thông Điệp Phật Đản PL. 2549 của Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
[25] Lược ghi theo Kinh Đại Bảo Tích,XIV Pháp Hội Bửu Lương Tụ, Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo, Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
[26] Luật Ma Ha Tăng Kỳ, Quyển thứ tám, Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La cùngSa Môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Phước Sơn, Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
[27] Pháp Cú Kinh, Thi Kệ Số 10