Close Menu
Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    Facebook X (Twitter) Instagram Pinterest YouTube
    • Mục đích & Chủ trương
    • Tác giả
    • Liên lạc
    Facebook X (Twitter) Instagram YouTube
    Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    • PHẬT HỌC
      • Đức Phật
        • Thánh đản
        • Thành đạo
      • Phật học phổ thông
      • Nghiên cứu
      • Giảng luận
      • Pháp thoại
      • Ứng dụng
      • Trích dẫn Phật pháp
    • KINH – LUẬT – LUẬN
      • Kinh
        • Giới thiệu kinh
        • Giảng giải
      • Luật
        • Luật học
      • Luận
    • PHẬT GIÁO VIỆT NAM
      • Lịch sử
      • Nhân vật
        • Chư Tôn đức
        • Cư sĩ hữu công
        • Tiểu sử
      • Sự kiện
      • Tưởng niệm
    • CHUYÊN ĐỀ
      • Dân tộc
      • Giáo dục
      • Khoa học
      • Xã hội
      • Triết học
      • Biên khảo
      • Phật giáo thế giới
      • Nhìn ra thế giới
      • Chuyên mục khác
    • TUỔI TRẺ
      • Đời sống
      • Hành trang
      • Gia đình Phật tử
    • VĂN HÓA
      • Xuân Vạn Hạnh
      • Quán Thế Âm
      • Kiết hạ
      • Vu Lan
      • Nghi lễ – Phong tục
      • Mỹ thuật – Kiến trúc
      • Âm nhạc
    • VĂN HỌC
      • Văn
      • Thơ
      • Truyện
      • Tùy bút
      • Phê bình
      • Giới thiệu – Điểm sách
    • PHẬT SỰ
      • Tin tức
    • THƯ VIỆN
      • Báo chí
        • Kỷ yếu
        • Tạp chí
        • Tập san
      • Sách
      • Tham luận
      • Luận văn
      • Tư liệu
      • Media
        • Audio – MP3
        • Video Clips
      • Hình ảnh
    • NGOẠI VĂN
      • General Buddhist Studies
      • Buddhism with Youth
      • Buddhist Education
      • Buddhist History
      • Buddhist Culture
      • Buddhist Literature
      • Buddhist Sociology
    Thư viện Phật ViệtThư viện Phật Việt
    Trang chủ » Nguyên Thành Lê Văn Hoàng: Sự phát triển của Gia đình Phật tử qua các giai đoạn

    Nguyên Thành Lê Văn Hoàng: Sự phát triển của Gia đình Phật tử qua các giai đoạn

    19/02/202176 Mins Read
    Share
    Facebook Twitter LinkedIn Pinterest Email

    SỰ TIẾN TRIỂN CỦA GÐPT
    QUA CÁC GIAI ÐOẠN

    Nội dung

    Toggle
    • SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GÐPT QUA CÁC GIAI ÐOẠN
    • Sách – Tài liệu tham khảo và trích đoạn:
    •  LỜI NÓI ĐẦU
    • SỰ TIẾN TRIỂN CỦA GÐPT QUA CÁC GIAI ÐOẠN
    • A. GÐPT QUA CÁC GIAI ÐOẠN
      • I. GIAI ÐOẠN DUYÊN KHỞI
      • II. GIAI ÐOẠN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
      • III. GIAI ÐOẠN THỐNG NHẤT VÀ TRƯỞNG THÀNH
    • B. SỰ TIẾN TRIỂN TỪNG MẶT CỤ THỂ QUA CÁC GIAI ÐOẠN
      • I. SỰ TIẾN TRIỂN VỀ PHƯƠNG DIỆN “PHÁP LÝ HÓA”:
      • II. TIẾN TRIỂN VỀ CƯƠNG LĨNH:
    • C. CÁC YẾU TỐ LÀM NÊN LỊCH SỬ
      • I. MỘT MỤC ÐÍCH TRONG SÁNG, THỰC TẾ, ÐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI:
      • II. TRUNG THÀNH VỚI LÝ TƯỞNG
      • III. KHÔNG ÐỂ CHÍNH KIẾN RIÊNG TƯ LÀM HOEN Ố LÝ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA GIA ÐÌNH PHẬT TỬ
      • IV. SỰ GIÀ DẶN, CHÍNH CHẮN TRONG MỌI ỨNG XỬ
      • V. GÂY ÐƯỢC LÒNG TIN TRONG XÃ HỘI BẰNG CHÍNH HÀNH ÐỘNG VÀ HIỆU QUẢ HÀNH ÐỘNG
    • C. KẾT LUẬN
    • Thoát thai từ biến cố lịch sử, những nhu cầu bức thiết của xã hội, nhân sinh, những trăn trở của người con Phật chân chính trước xã hội hỗn loạn, Phật pháp suy đồi, bị ngộ nhận, rẻ khinh.
    • Thuận duyên với Phong trào chấn hưng Phật giáo đang là trào lưu lớn mạnh trong toàn vùng.
    • Thúc đẩy bởi tinh thần từ bi, trí tuệ và dũng mãnh. Lý tưởng GÐPT được ấp ủ, hình thành. Các tổ chức giáo dục thanh niên Phật giáo ra đời, hệ thống hóa thành một tổ chức khoa học, tiến bộ, bắt kịp trào lưu xã hội, tiến triển và trưởng thành đủ bản lĩnh nhận lãnh sứ mệnh đối với bản thân và xã hội.
    • Từng giai đoạn hình thành, bằng chánh kiến, chánh tư duy, thiết lập chánh nghiệp, tương hợp trong mỗi trạng huống xã hội, chứng minh bản lĩnh vô úy của chính mình. Từng bước tiến lên tồn tại và trưởng thành vượt qua mọi xu thế chính trị, mọi thế lực nhất thời. Nhiếp phục xã hội, kể cả những kẻ không đồng tình với chúng ta vì lẽ này hay lẽ nọ.

    Bằng niềm tự hào quá khứ đó, cộng với tình trạng GÐPT hiện nay, trăn trở về một tiền đồ GÐPT là nổi bức xúc không chỉ mỗi riêng ai.

    Nhìn lại quá khứ – thiết lập hành trang thích hợp cho con đường đi tới âu cũng là việc đáng làm, dù trễ còn hơn không.

    A. GÐPT QUA CÁC GIAI ÐOẠN

    I. GIAI ÐOẠN DUYÊN KHỞI

    Bức xúc trước tình trạng xã hội và nhân sinh lúc bấy giờ, mong ước có một thế hệ Phật tử đầy đủ chánh tín; những con người chân chánh sống trong một xã hội chân chánh là mong ước cháy bỏng trong lòng mọi người con Phật có trách nhiệm và có lương tâm.

    • Nói rằng, năm 1940 các sơ sở của tổ chức giáo dục Thanh thiếu niên Phật tử được thành lập cũng đúng. Nhưng phải biết rằng đã từ năm 1932, những tổ chức giáo dục thanh thiếu niên Phật tử đã có mặt rồi và được gọi là Ban Ðồng Ấu. Ở Trung thì do các vị như Bửu Bác chăm sóc dạy dỗ, ở Bắc thì do các vị như Công Chân luyện tập. Tuy nhiên những Ban Ðồng Ấu này chưa đích thực là những tổ chức giáo dục Thanh thiếu niên có tổ chức, có chương trình, có phương pháp.
    • Ðến năm 1940, Tâm Minh Lê Ðình Thám qui tụ một số thanh niên trí thức Tân Học tại Huế, phần lớn là con em các cư sĩ từng hoạt động trong Hội An Nam Phật Học và thành lập Ðoàn Phật Học Ðức Dục (Ông cũng gọi tổ chức này bằng danh từ Pháp ngữ “Commission d’Etudes Bouddhiques et de Perfectionnemen Moral”). Bản thân Ông điều khiển tổ chức này và dạy Phật pháp cho họ. Ðều là những người trí thức, họ được nghe trình bày đạo Phật theo lối Tân học nên các anh chị học hiểu và thấm nhuần giáo lý Phật giáo, họ nhận chân tinh thần Phật giáo một cách mau chóng, đồng thời họ còn được học Nho học và Lão học để nâng cao tri thức đạo đức và mở rộng tầm nhìn, phát huy chánh kiến (Ông Ðinh Văn Chấp, tiến sĩ Hán học phụ trách).
    • Ðoàn Phật học Ðức Dục lúc ấy tượng trưng cho một “Ðạo Phật rất mới” – Bài ca chính thức của Ðoàn – Bài Hoa Sen Trắng – được hát bằng tiếng Pháp. Ðiều này khiến cho giới Thanh thiếu niên thấy rằng Ðạo Phật là một cái gì rất hợp thời, không còn cổ hủ, lạc hậu nữa.
    • Ðồng thời, nhiều Ban Ðồng Ấu được thành lập, những Ban này được hướng dẫn, học tập, rèn luyện bởi những Ðoàn viên của Ðoàn Thanh niên Phật học Ðức Dục. Người chăm sóc các em tại mỗi ban được gọi là Anh hay Chị “Kiểm Ban”.
    • Ngoài các Ban Ðồng Ấu do Ðoàn PHÐD trực tiếp hướng dẫn. Các anh chị lúc đó còn ra sức giúp đỡ các Ðoàn thể khác cùng mục đích với mình, tuy hoạt động có yếu hơn, ảnh hưởng không sâu rộng như: Ðoàn Thanh niên Phật tử, Ðoàn Thiếu nhi Phật Hiện đại.
    • Cuốn sách căn bản để giáo dục Phật pháp và đời sống cho thanh thiếu niên hồi ấy là cuốn “Phật giáo sơ lược”, trình bày theo lối vấn đáp từng câu hỏi nhỏ, từ trình độ thấp đến cao; khúc chiết, minh bạch, dễ hiểu, dễ nhớ, bằng những từ ngữ thông dụng hợp thời – Ðến nay, theo nhận xét của tôi nó vẫn còn có giá trị cao về mặt giáo dục và sư phạm. Một biên khảo về cuốn sách này quả là điều lý thú và cần thiết.
    • Năm 1942, Cụ Lê Ðình Thám thấy bọn trẻ làm việc có hiệu quả nên giao cho họ điều khiển, biên tập tạp chí Viên Âm của Hội An Nam Phật học (từ số 48 trở đi) và sử dụng tạp chí này để tạo dựng một thế hệ Phật tử mới. Hầu hết bài viết đều hướng về thế hệ trẻ.
    • Ðoàn Phật Học Ðức Dục lại hoạt động xuất bản, tổ chức “Phật học Tùng thư” và xuất bản nhiều sách Phật học, trong đó có các quyển “Phật giáo và thanh niên Ðức dục” của Phạm Hữu Bình, “Phật giáo và Ðức Dục” của Ðinh Văn Vinh, “Ðời vui” của Ngọc Thừa, “Thanh niên Ðức Dục” của Ðinh Văn Nam. “Ðời sống vui” của Trần Ðỗ Cung. Những cuốn sách này đều nhắm đến việc xây dựng phong trào Thanh thiếu niên Phật tử.
    • Cuối năm 1942, đã có 82 Ban Ðồng ấu được thành lập, mỗi Ðoàn có khoảng 40 em.
    • Ðại hội Thanh thiếu niên Phật tử ngày Phật đản 1944, qui tụ trên 400 Ðoàn sinh tại đồi Quảng Tế (gần chùa Từ Hiếu – Huế). Ðại hội này khai sinh Gia đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của GÐPT sau này, đánh dấu sự phát động phong trào Thanh thiếu niên Phật tử tại Việt Nam.
    • Ðưa tuổi trẻ vào Ðạo Phật – thành công bước đầu của phong trào Thanh thiếu niên Phật tử – cũng có thể nói là một thành công lớn trong ý hướng phục hưng Phật giáo của nước ta vậy.

    II. GIAI ÐOẠN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

    • Thành công của Ðại hội thanh thiếu niên Phật tử tại đồi “Quảng Tế” làm nức lòng con Phật, chứng minh việc làm trên đáp ứng nhu cầu xã hội, thích hợp với giới trẻ và được xã hội chấp nhận. Các Gia đình Phật Hóa Phổ đầu tiên ra đời mang tên Tâm Minh, Thanh Tịnh, Tâm Lạc,…
    • Nhưng “sự đời không đi đôi với bản nguyện”. Năm 1946, chiến tranh giành độc lập của dân tộc bùng nổ, anh chị em một số làm nhiệm vụ với Tổ quốc, tại Huế nhân dân phải tản cư, phong trào mới khai sinh đã phải dừng lại. Nhưng ước muốn đem vui cứu khổ vẫn còn đó, với trí tuệ và dũng lực vẫn còn đây, anh chị em lại bắt tay làm lại từ đầu sau ngày hồi cư.
    • Gia đình Phật Hóa Phổ đầu tiên được phục hồi lấy tên GÐPHP Hướng Thiện do cụ Phan Cảnh Tú làm Phổ trưởng.
    • Về hình thức và sinh hoạt của Gia đình này cũng không có gì khác so với các Gia đình Phật Hóa Phổ trước đó, nghĩa là chưa được tổ chức thành đoàn, đội, chúng…, chưa có đồng phục, chưa có nội qui rõ ràng, mà lại… không được thuần nhất như trước kia (GÐPHP Hướng Thiện lúc đầu gồm cả già, trẻ, bé, lớn, những thành viên sáng lập Hội Phật Học, các cư sĩ nam, nữ, thanh niên Phật Tử, Hướng đạo sinh…). Vì hoàn cảnh lúc đó phải chấp nhận việc trên, không ít những lời phản đối, nhưng âu cũng là cơ duyên thuận lợi “đa dạng hóa nhân sự” cho bước phát triển của phong trào sau này.
    • Trong tình hình xã hội và đất nước có nhiều biến chuyển (1946-1947), giai đoạn “phục hồi” của GÐPHP cũng bị ảnh hưởng và chuyển biến. Một xu hướng mới, tiến bộ, đòi hỏi phải có tổ chức khoa học, có tinh thần xã hội, có phương pháp tiên tiến. Nên mục đích của GÐPHP đã có phần sai khác với mục đích do Ðạo hữu Tâm Minh đề xướng trước đây.
    • Gia đình Phật Hóa Phổ Hướng Thiện đã có một “bộ mặt mới”: chỉ còn giữ lại thành phần trẻ, bắt đầu phân chia nam nữ theo từng hạng tuổi và kết thành đội, chúng, đàn. Tiến một bước “hiện đại hóa”, đòi hỏi phải có đồng phục, huy hiệu, cờ, phù hiệu, cấp bậc… được chấp thuận.
    • Năm 1947, Tổng Trị Sự Hội Phật Học Trung phần (trước là Hội Phật Học Trung Phần, rồi Hội Việt Nam Phật Học) ra quyết định thừa nhận Gia đình Phật Hóa Phổ.
    • Tháng 6-1948 (Mậu Tý – PL 2491) khi Tổng Hội đặt trụ sở tại 1B, đường Nguyễn Hoàng thì GÐPHP Thừa Thiên cũng được Tổng Hội dành cho một nơi để làm Niệm Phật Ðường và trụ sở.
    • Ngày thành Ðạo PL 2491 (đầu năm 1949) GÐPHP tổ chức “Lễ Ra Mắt” tại giảng đường chùa Từ Ðàm dưới sự chứng minh của các ngài Hòa thượng, Thượng tọa Tường Vân, Thuyền Tôn, quý thầy trong giáo hội và Ban Trị Sự Hội Phật Học (Ð/h Lê Văn Ðịnh làm Chánh hội trưởng) chính trong buổi lễ này, “Huy hiệu Hoa Sen” của Gia đình Phật Hóa Phổ được đích thân các Ngài gắn vào áo của các anh Võ Ðình Cường, Văn Ðình Hy, Phan Xuân Sanh, Nguyễn Xuân Quyền và các chị Hoàng Thị Kim Cúc, Tôn Nữ Cẩm Nhung, Ðoàn Thị Nhường, Ðặng Tống Tịnh Nhơn, Hoàng Thị Khương, Hoàng Thị Quý…
    • Sự trưởng thành và bành trướng sau này của GÐPHP có công đức lớn lao của các Thầy Thích Minh Châu, Thích Ðức Tâm, Thích Thiên Ân, Chơn Trí…
    • GÐPH Hướng Thiện mỗi ngày thêm đông, cần củng cố và phải nghĩ đến việc thành lập những Gia đình mới. Và từ đó ta có những Gia đình Tịnh Trang, Gia đình Chơn Tri, Gia đình Hương Ðàm, Gia đình Hương Ðạo, Gia đình An Thiện, Gia đình Hương Từ, Gia đình Gia Thiện v.v…
    • Những Gia đình Phật Hóa Phổ đầu tiên này, lúc bấy giờ, thường sinh hoạt hằng tuần vào ngày Chủ Nhật, ngay tại nhà các vị Gia trưởng hay ở một góc sân chùa, trước sân khuôn tịnh độ Tỉnh hội… (như trong Thành Nội, Chợ Cống, Chùa Từ Ðàm, Gia Hội, An Cựu, Phú Bình, Phúc Cát…)
    • Chẳng bao lâu tổ chức GÐPHP – Huế được các Tỉnh khác hưởng ứng như ở Ðà Lạt, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Trị, Quảng Nam, Khánh Hòa, Phan Rang, Phan Thiết…
    • Cũng trong thời gian 49-50, tổ chức GÐPHP cũng bắt đầu thành hình tại miền Nam do anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục phổ biến… Nhưng tại miền Nam thì giai đoạn hình thành có phần khác với miền Trung và miền Bắc. (Từ trước, trong các tư liệu “Thành lập GÐPHP” chúng ta, thì thường đề cập đến các Gia đình ở miền Trung và ít nói đến GÐPHP tại miền Bắc, miền Nam và đặc biệt các Gia đình Phật tử Bắc Việt tại miền Nam – miền Vĩnh Nghiêm (năm 1955-65). Nay chúng ta xét cũng nên nhắc lại những nét lớn để bổ sung, một phần để Ðoàn viên Gia đình Phật tử có thêm tư liệu, một phần làm nền tảng tư duy tổ chức độc đáo chỉ có thể tìm thấy được trong tổ chức Thanh – Thiếu – Ðồng niên của Gia đình Phật tử Việt Nam).
    • Tại miền Trung các GÐPHP thành lập được một Ban Hướng Dẫn GÐPHP đầu tiên (năm 1950) gồm có: Trưởng ban là anh Nguyên Hùng Võ Ðình Cường và nhiều Ban viên: các anh Phan Cảnh Tuân, Nguyễn Xuân Quyền, Lê Văn Dũng và chị Hoàng Thị Kim Cúc, Ðặng Tống Tịnh Nhơn… thì anh Văn Ðình Hy, ra Hà Nội học đã cổ động, trình bày với các anh chị Phật tử ở Hà Nội và Hải Phòng… và anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục (trước đây là một Huynh trưởng GÐPHP Chơn Tri và là người sáng lập GÐPHP Chánh Giác (năm 1949) tại Chùa Phật Quang, thuộc Giáo hội Tăng Già Nam Việt.

    Một dấu ngoặc được mở ra ở đây để ghi thêm: “Giai đoạn duyên khởi hình thành Gia đình Phật Hóa Phổ tại miền Nam”:

    • Trong thời kỳ Chấn hưng Phật giáo (1931), một “Hội Phật Học” đầu tiên được thành lập tại Sài Gòn lấy tên là Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và kế đó là Hội Lưỡng Xuyên Phật Học. Những vị có công khởi xướng lên hội này là các Ngài Khánh Hòa, Ngài Huệ Quang, Ngài Khánh Anh cùng một số quý vị tăng già và cư sĩ tân tiến… Trong khi phong trào chấn hưng Phật giáo đang lên (tại cả ba miền) thì trận thế chiến thứ hai bùng nổ và tiếp theo là chiến tranh Việt Pháp làm gián đoạn các sự hoạt động của các hội Phật học, các Giáo hội trong nước.
    • Ðến những năm 1947-48, mặc dù chiến tranh Việt Pháp chưa ngưng tiếng súng, nhưng vì nóng lòng vì Ðạo Pháp, những nhà lãnh đạo Phật giáo ở trong các vùng bị quân đội Pháp chiếm đóng, đã tích cực hoạt động để chỉnh đốn và phát triển, những cơ sở của các hội đã bị chiến tranh tàn phá… Một số, các Thượng tọa, Ðại Ðức ở Huế di cư vào Nam, cùng các thầy tại miền Nam, mới bắt đầu gây dựng Giáo hội Tăng già miền Nam, trước tại chùa Sùng Ðức (Chợ Lớn) sau dời về chùa Ấn Quang.
    • Năm 1949, được các thầy Thích Huyền Dung, Thích Quảng Liên và nhất là thầy Thích Thiện Hòa khuyến khích và nâng đỡ về tinh thần và tài chánh, anh Tâm Lạc mới triệu tập được một số các em thiếu niên, thành lập nòng cốt GÐPHP, lấy tên là Gia đình Phật Hóa Phổ Chơn Tri Sài Gòn, tại chùa Sùng Ðức.
    • Khi Giáo Hội Tăng Già Việt Nam dời về chùa Ấn Quang GÐPHP Chơn Tri Sài Gòn dời về chùa Phật Quang (Chợ Lớn) thì GÐPHP Chơn Tri Sài Gòn đã trong giai đoạn phát triển với 6 anh, chị trưởng và trên 60 đoàn sinh.
    • Vì lẽ bấy giờ chưa có hội Phật học Nam Việt nên Giáo hội Tăng Già Nam Việt phải đứng ra đỡ đầu (pháp lý hóa) và đổi tên Gia đình là Gia đình Phật Hóa Phổ Chánh Giác (năm 1950). Dù chỉ có một và một Gia đình duy nhất, nhưng GÐPHP Chánh Giác cũng đã có “Nội Quy Trình” riêng của nó (khác về phần chi tiết nhưng giữ được phần nội dung chính so với Nội quy trình được áp dụng tại miền Trung và miền Bắc).

    Năm 1951 có 2 biến cố lịch sử của Phật giáo đã diễn ra:

    • Ðại hội Gia đình Phật hóa Phổ, gồm 9 tỉnh hội, chi hội Việt Nam Phật học miền Trung (Thừa Thiên, Lâm Viên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Ðà Nẵng, Ðồng Nai Thượng, Di Linh, Bình Thuận, Chi hội Cam Ranh) với sự tham gia chính thức của Anh Nguyễn Văn Nhã (GÐPHP Minh Tâm chùa Quán Sứ Hà Nội), chị Ni (GÐPHP Liên Hoa, Hải Phòng) và dự thính của anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục (GÐPHP Chánh Giác Nam Việt, lúc bấy giờ còn thuộc hệ thống Giáo hội Tăng Già Nam Việt), họp tại chùa Từ Ðàm – Huế trong những ngày 24, 25, 26 tháng 4 năm 1951. Chính trong Ðại hội này (năm 1951) Gia đình Phật hóa Phổ đã đổi danh hiệu của mình với danh hiệu mới là Gia đình Phật tử, và Ðại hội đã biểu quyết một bản “Nội quy trình” căn bản phù hợp với sự trưởng thành của tổ chức giáo dục Thanh, Thiếu, Ðồng niên Phật tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.
    • Ðại hội Phật giáo Thống nhất lần đầu tiên của 6 tập đoàn Tăng già và cư sĩ, gồm 51 đại diện họp tại chùa Từ Ðàm Huế trong những ngày 6, 7, 8 và 9 tháng 5 năm 1951. (Trong dịp chào mừng đại hội, GÐPT kính tặng bài hát “Phật giáo Việt Nam Thống Nhất”.
    • Ðại hội đã thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Trong ban Quản trị Trung Ương đầu tiên của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, anh Võ Ðình Cường được bầu làm Ủy viên Thanh niên và anh Tống Hồ Cầm làm phó thư ký.
    • Vào cuối năm 1951, Khi hội Phật học Nam Việt có trụ sở tại chùa Phước Hòa – Bàn Cờ (Sài Gòn) thì các anh Tống Hồ Cầm, Nguyễn Hữu Huỳnh và Nguyễn Văn Thục mới bắt đầu gây dựng Gia đình đầu tiên thuộc Hội Phật Học Nam Việt lấy tên là GÐPT Chánh Trí do anh Nguyễn Hữu Huỳnh làm Liên Ðoàn Trưởng và đạo hữu Mai Thọ Truyền làm Gia Trưởng.
    • Trong tinh thần “Thống nhất tổ chức GÐPT trong cả nước”, Gia đình Phật Hóa Phổ Chánh Giác (thuộc Giáo hội Tăng già Nam Việt) và Gia đình Phật Tử Chánh Tín (thuộc hệ thống Phật Học Nam Việt) đã sát nhập lại thành một Gia đình (thuộc hệ thống Hội Phật Học Nam Việt), lấy tên chung là GÐPT Chánh Ðạo (tháng 2/1952) với Cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, rồi bàn giao cho Ð/h Võ Ðình Dân làm Gia trưởng, Ð/h Tống Hồ Cầm làm cố vấn, và anh Nguyễn Văn Thục làm Liên Ðoàn Trưởng.
    • Năm 1952 là giai đoạn “phát triển” của các Gia đình miền Nam. Nhờ được tiếng vang và ảnh hưởng sâu xa của 2 Ðại hội (Ðại hội Gia đình Phật tử và Ðại hội Phật giáo Thống nhất) tổ chức năm 1951 tại Huế, nhờ có sự tiếp sức nồng hậu và tích cực của một số anh chị Miền Trung vào sinh sống tại Sài Gòn, đặc biệt nhờ sự khuyến khích của các Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức trong Giáo hội Tăng Già Nam Việt (Chùa Ấn Quang), đặc biệt các Thượng tọa Thích Thiện Hòa, Ðại đức Thiện Ðịnh, Thanh Từ v.v… nhận vai trò cố vấn Giáo lý các Gia đình, vừa cổ động thành lập Gia đình tại các tỉnh miền Nam, Ban Huynh trưởng GÐPT Chánh Ðạo liên tiếp tổ chức các trại huấn luyện Ðội, Chúng, Trưởng, Huấn luyện Ðoàn trưởng “A-Dục I” (Sài Gòn) “A-Dục II” (Cần Thơ)…
    • Lần lượt các tỉnh Gia Ðịnh, Sadec, Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, Trà Vinh, Bình Dương, Biên Hòa… đã bầu được Ban Hướng Dẫn Tỉnh, tiến đến Bầu Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử Nam Việt với anh Tống Hồ Cầm làm Trưởng Ban và anh Nguyễn Văn Thục làm Phó.
    • Giai đoạn thành hình các Gia đình Phật Tử Bắc Việt (sau này GÐPT miền Vĩnh Nghiêm) thì bắt đầu từ 1955-56. Sau nạn chia đôi đất nước năm 1954, số đông các Thượng tọa, Ðại đức trong Giáo hội Tăng Già Bắc Việt đã sớm ổ định và tập trung được các cư sĩ Phật tử Bắc Việt tại chùa Giác Minh, các Thầy cũng nghĩ ngay đến việc thành lập Gia đình Phật tử để giáo dục Thanh, Thiếu, Ðồng niên…
    • Hai Thượng tọa Thích Thanh Cát và Thích Chánh Tiến sớm quan hệ với anh Tâm Lạc và nhờ anh đứng ra mời các anh, chị Trưởng đến tổ chức và hướng dẫn các em tại chùa Giác Minh (đường Phan Thanh Giản Q.3 Sài Gòn) và mấy tháng sau thêm một Gia đình nữa tại chùa Kim Cương (đường Trần Quang Diệu Q.3 Sài Gòn) hai Gia đình này đều thuộc hệ thống Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam. Lấy tên là GÐPT Giác Minh I và Giác Minh II.
    • Ðến khi Hội Phật Học Bắc Việt tại miền Nam dời về Chùa Phước Hòa (Bàn Cờ Sài Gòn – Trước đây là trụ sở của Hội Phật Học Nam Việt và là nơi sinh hoạt của Gia Ðình Chánh Trí – Chánh Ðạo) thì Hội Phật Học Bắc Việt tại miền Nam mới thành lập thêm một Gia đình Phật tử Minh Tâm do Ð/h Viên Quang làm Gia Trưởng.
    • Hai Gia Ðình Giác Minh I và Giác Minh II trước đây do anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục làm Liên Ðoàn Trưởng nay cũng được bàn giao lại cho Ð/h Tâm Thông Nguyễn Ðức Lợi làm Gia trưởng với một số đông anh, chị Trưởng đã qua các khóa huấn luyện Huynh trưởng. Các anh, chị này là những Huynh trưởng nồng cốt của các Gia đình và sau này là những Ban viên trong Ban Hướng Dẫn GÐPT miền Vĩnh Nghiêm do Ð/h Tâm Thông Nguyễn Ðức Lợi làm Trưởng Ban, anh Minh Phong Tôn Thất Liệu và chị Ðoàn Thị Kim Cúc làm Phó Trưởng Ban.

    Trở lại, nói chung về GÐPT toàn quốc:

    • Năm 1953, một Ðại hội GÐPT – lần thứ hai được tổ chức tại Huế với 63 đại diện Trung, Nam, Bắc để cải thiện chương trình sinh hoạt về 3 phương diện:
      1. Ðạo trong Ðời, Ðời trong Ðạo
      2. Lý thuyết để thực hành, thực hành cho lý thuyết
      3. Áp dụng đúng thời và hợp thế.
    • 1955, Ðại hội lần thứ Ba tại chùa Linh Sơn, Ðà Lạt, tập trung về việc chấn chỉnh “Hình thức GÐPT” và thảo luận về “Sứ mệnh Huynh trưởng GÐPTVN”. Chính trong kỳ Ðại hội này “Quy chế Huynh trưởng” ra đời.
    • Ngày 22/1/1961, Ban Hướng Dẫn GÐPT Trung phần đã tổ chức tại Huế một Ðại hội Huynh trưởng Trung phần thường niên, nhưng mang một tánh cách đặc biệt liên hệ đến tình hình đất nước và xã hội. Xin trích một vài đoạn trong bài diễn văn của Chị Trưởng Ban: “… Ngày nay nếu hoạt động của GÐPT đối với Ðạo Phật nước nhà không còn là một tổ chức nhất thời phụ thuộc, thì sứ mạng của nó trước hiện tình của thời cuộc Việt Nam hiện tại, càng to lớn, gay go, càng trở nên phức tạp. Về vấn đề quan trọng này, nó đã làm cho bao nhiêu kẻ hữu tâm phải thường lo âu, suy nghĩ, đặt vấn đề và nêu lên một tình trạng cần thiết để giải quyết tình trạng đó…”, “Suốt một năm qua, vì lẽ sự đời không đi đôi với bản nguyện, ngoài những cố gắng đẹp đẽ của các GÐPT Tỉnh Hội, trong những sinh hoạt hạ tần. Cơ sở thượng tầng mà BHD/TP phải lãnh một phần trọng trách hình như không tiến được một bước nào khả quan – không khả quan chỉ vì có nhiều thất bại, lâm vào tình trạng bất khả cần được trình bày cùng quý vị tường tận hơn ở đoạn sau…”.“… Tuy vậy để đối phó với tình trạng khó khăn này, thuận thời mà không lợi thế, hầu đẩy mạnh phong trào GÐPT về chiều rộng lẫn chiều sâu, chưa bao giờ vai trò lãnh đạo cần được lưu tâm mật thiết như ngày nay. Vấn đề này đòi hỏi những con người tài đức, thực tế, mềm dẽo, trung kiên để thành tựu đối nội, nhất là đối ngoại…”
    • Ðại hội Huynh trưởng thường niên Trung phần này cũng có thể xem như một “tiền hội nghị mở rộng” chuẩn bị cho một Ðại hội Thống nhất GÐPT Việt Nam (trong hệ thống của Tổng hội PGVN toàn quốc) được tổ chức tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn, cũng trong năm 1961.
    • Mục đích của đại hội này là tiến đến, không những thống nhất về “tinh thần”, về “tổ chức” mà còn thống nhất về mặt “hình thức”, áp dụng một “Nội Quy” chung cho cả nước, bầu một Ban Hướng Dẫn GÐPT Trung Ương (gồm BHD Trung phần, BHD Nam Việt và BHD Vĩnh Nghiêm (Bắc Việt). Nhưng rất tiếc lúc bấy giờ, nội tình (lại nội tình) và ngoại cảnh còn phức tạp và còn gặp quá nhiều trở ngại nên đại hội chưa đạt kết quả mong muốn.
    • Mãi đến năm 1964, sau cuộc Pháp nạn (1963) vận động tranh đấu bảo vệ Chánh Pháp, bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội của Phật giáo Việt Nam, đã đem lại thành công. Phật giáo Việt Nam bước qua một giai đoạn mới, giai đoạn cải tạo xã hội, đem lý tưởng hòa bình cố hữu của Phật giáo để phục vụ dân tộc. Phật giáo Việt Nam từ đây đã thật sự thống nhất. Hòa vào niềm phấn khởi đó, Ðại hội Huynh trưởng thống nhất GÐPTVN được triệu tập, mở ra một kỷ nguyên mới trưởng thành của GÐPT Việt Nam.
    • Qua đoạn trên, chúng ta thấy rằng: Hoạt động trong thời kỳ này trở về trước thật không “dễ ăn” chút nào. Chúng ta hãy nghe anh Trưởng Ban Hướng Dẫn “than” như thế này:
      “… Danh từ Gia đình Phật tử đã quen thuộc với bà con cố đô này lắm, tuy thế, ý nghĩa của nó, mục đích và hoạt động, lập trường và triển vọng của nó, còn lờ mờ đối với phần đông đồng bào ở Thuận Hóa, có một số bà con đã có thái độ quý hóa là cố theo dõi công việc của chúng tôi để tìm hiểu mặt thật của GÐPT. Nhưng tiếc thay, thái độ quý hóa đó không phải là thái độ của số đông! Phần đông đồng bào đã mang những cặp kính màu của họ: thôi thì, đỏ cũng có mà vàng cũng có, xanh cũng có mà tím cũng có. Lạ nhất là có khi nó biến ra thành ngôi sao vàng trên nền đỏ, có khi thành ra ba sọc đỏ và có khi thành xanh trắng đỏ nữa! Vâng, người ta đã quả quyết rằng đó là đoàn thể biến tướng của Việt Minh, vì “bọn nó cứng đầu lắm, không ủng hộ ai cả”. Có người lại bảo: “Chúng nó là của chính phủ. Chúng nó ranh lắm. Bây giờ giả vờ trung lập để câu thanh niên, nhưng một ngày kia đủ lông đủ cánh, chúng nó sẽ về với chính phủ bù nhìn cho mà xem”. Có người lại bảo: “Chúng nói là của Tây, vì nếu không phải là của Tây thì thế nào mà hoạt động được trong vùng chiếm đóng”. Có người lại bảo: “Ðó là tổ chức thanh niên bắt chước Hướng đạo mà bắt chước không nên, thế thì theo quách Hướng đạo còn hơn”. Có người lại bảo: “Ðó là một tổ chức tôn giáo lạc hậu, có mục đích nhồi sọ, bắt trẻ con đi cầu siêu cầu an, hộ niệm cho rậm đám”. Ðó là những dư luận lớn. Ngoài ra thỉnh thoảng chúng tôi còn nghe bay trong gió những lời hăm dọa, chúng tôi chỉ biết mỉm cười: có những lời ca tụng mà như phản tuyên truyền, những lời chê bai mà chúng tôi lại lấy làm sung sướng.
      Những dư luận sai lầm vừa kể đó, chúng tôi không trách cứ vào ai cả. Chúng tôi đã tự trách mình đã thiếu kinh nghiệm…” (Diễn văn – 1942)
    • Thời đó, các anh chị đã bình tĩnh đối phó với những khó khăn tưởng chừng không vượt qua được: Những thế lực chính trị hăm dọa, mua chuộc, đất nước phân hóa, chiến tranh, đầy dãy thành kiến và ngộ nhận. Một cổ năm bảy tròng. “Cựa quậy” làm sao? Ðối phó làm sao? Không những xã hội, ngay cả nội bộ cũng có vấn đề “… nội tình ngoại cảnh biết bao phức tạp…”. “Sự đời không đi đôi với bản nguyện”, “thuận thời mà không lợi thế”v… Trong tình trạng như vậy, các anh chị vẫn anh dũng vượt qua – Yếu tố nào? Phẩm chất nào? Thuận lợi nào?Phải chăng – cũng như lời Chị Cúc: “… không lúc nào vai trò lãnh đạo cần được lưu tâm mật thiết như ngày nay. Vấn đề này đòi hỏi những con người tài đức, thực tế, mềm dẽo, trung kiên để thành tựu đối nội, nhất là đối ngoại…”Vai trò lãnh đạo trên đây là ai? Nếu như chị Cúc không chỉ rõ là các anh chị ngồi đây? Ðể cùng nhau chia sẻ ý niệm: Tài đức, mềm dẽo, thực tế, trung kiên, thành tựu đối nội, đối ngoại?!!! Và trong những khái niệm đó, chúng ta được mấy phần? Một thành công lớn trong ý hướng phục hưng Phật giáo của nước ta vậy.

    III. GIAI ÐOẠN THỐNG NHẤT VÀ TRƯỞNG THÀNH

    Ðại hội Huynh trưởng thống nhất GÐPTVN, (28-29-30/6/1964) gồm 200 đại biểu – đại diện cho 942 Gia đình Phật tử (942 vị Gia trưởng, 7452 Huynh trưởng các cấp và 78,756 đoàn sinh các ngành), đã biểu quyết một Bản nội quy mới cho cả nước, phù hợp với giai đoạn mới, với cơ cấu tổ chức mới của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đúng theo Hiến chương của GHPGVNTN lập ngày 04-1-1964, và đã bầu một Ban Hướng Dẫn Trung Ương GÐPTVN.

    • Lần đầu tiên trong lịch sử GÐPTVN, một Ban Hướng Dẫn thống nhất trong cả nước, một Nội quy chung, một đường lối chung, một cương lĩnh chung, một chương trình chung, một phương pháp chung… được chấp nhận. Sự nhất trí đã lên đến đỉnh cao. Uy tín của GÐPT đối với xã hội đã được minh định và sự trưởng thành của GÐPT Việt Nam được xem là lẽ đương nhiên.
    • Tưởng cũng nên nhắc lại thành phần của BHDTW đều tiên đó để thấy rằng, uy tín của các thành viên BHD và uy tín của tổ chức là không thể tách rời. Một BHD mà: “Khả năng và đạo đức không thể tách rời, tri thức và kinh nghiệm phải được thực hiện nương nhau”.

    Ban Hướng Dẫn Trung Ương GÐPTVN (đầu tiên):
    – Trưởng ban: Võ Ðình Cường
    – 2 Phó Trưởng ban: Tống Hồ Cầm (ngành nam) – Hoàng Thị Kim Cúc (ngành nữ)
    – Tổng Thư ký: Cao Chánh Hựu
    – 2 Phó Tổng Thư ký: Ðoàn Văn Lộc – Nguyễn Xuân Quyền
    – UV Nghiên huấn: Phan Văn Gái
    – UV Tổ chức và Kiểm soát: Nguyễn Khắc Từ
    – UV Văn Mỹ nghệ: Lê Cao Phan
    – UV Hoạt động Thanh niên và Xã hội: Ðoàn Văn Thiệp
    – UV Doanh tế: Lê Văn Lộc
    – UV Tu thư: Nguyễn Minh Hiền
    – UV Nam Phật tử: Nguyễn Hữu Thanh
    – UV Nữ Phật tử: Ðoàn Thị Kim Cúc
    – UV Thiếu Nam: Phú Toàn Cương
    – UV Thiếu Nữ: Phạm Thị Xuân Viên
    – UV Nam Oanh Vũ: Bùi Công Phương
    – UV Nữ Oanh Vũ: Trần Thị Tuệ Tâm

    Ðại diện Miền:
    – Vạn Hạnh: Lương Hoàng Chuẩn
    – Liễu Quán: Trần Ngọc Giao
    – Khuông Việt: Nguyễn Châu
    – Khánh Hòa: Mã Thành Cưng
    – Huệ Quang: Nguyễn Thanh Quang
    – Vĩnh Nghiêm: Nguyễn Ðức Lợi
    – Quảng Ðức: (trực thuộc BHDTƯ)

    Như vậy đối với “Người mặc áo Lam”, chúng ta có thể nói: Ðại hội Huynh trưởng GÐPTVN tổ chức tại Sài Gòn (từ 28 đến 30/6/1964 đánh dấu một điểm son trong quá trình phát triển và lớn mạnh của GÐPTVN, và hơn nữa có thể xem đây là “Một trang lịch sử mới” của “Tổ chức Áo Lam”, biểu hiện qua “Nội Quy GÐPTVN – 1964/Sài Gòn”.

    Cũng như trước đây, cứ mỗi “bước tiến” của Gia đình Phật hóa Phổ bước sang Gia Ðình Phật Tử thì “Nội quy” được tu chỉnh – không phải một mà nhiều lần, vừa đúc kết “công trình cân não và xương máu của toàn thể Ðoàn viên GÐPT, từ ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau” vừa hoạch định một hướng đi vững chắc và xán lạn hơn.

    Ðại hội Huynh trưởng GÐPT toàn quốc từ 30 đến 01 tháng 8 năm 1967 “Nội Quy – 1964/Sài Gòn” đã được tu chỉnh và được “bổ sung” bởi Ðại hội tại Ðà Nẵng từ 29 đến 31 tháng 7 năm 1973 – PL 2517. Qua hai Ðại hội này, lần lược các vấn đề về tổ chức, chương trình tu học, cơ cấu từng bước hoàn chỉnh cho xứng đáng với một tổ chức có cương lĩnh và có bản lĩnh.

    Làm được điều đó không phải một sớm một chiều mà là: Một công trình cân não… nhờ sự điều hành của một BHD hùng hậu và nhất trí, nhờ những chương trình tu học thích hợp… nhờ một đường lối đúng đắn,… có cương lĩnh và lãnh đạo sáng suốt… v.v… (Nội quy – Lời nói đầu).

    Trong quá trình Ðại hội GÐPTVN tại Ðà Nẵng ta thấy tiến hành cùng một lúc 3 Ðại hội:

    1. Ðại hội Huynh trưởng GÐPTVN
    2. Ðại hội Ban Bảo Trợ GÐPTVN
    3. Ðại hội Ðoàn cựu Huynh trưởng Gia Ðình Phật Tử Việt Nam.

    Chiếu theo Biên bản Ðại hội và trích từ Biên bản Ðại hội khoáng đại Huynh trưởng – Bảo trợ – Cựu Huynh trưởng, trang 97 ta có:

    1. Ban Hướng Dẫn Trung Ương GÐPTVN (từ niên khóa 1973 đến…)
      – Trưởng ban: Võ Ðình Cường
      – Phó Trưởng ban ngành Nam: Lương Hoàng Chuẩn
      – Phó Trưởng ban ngành Nữ: Hoàng Thị Kim Cúc
      – Tổng Thư ký: Cao Chánh Hựu
    2. Thành phần Ban Chấp Hành Ban Bảo Trợ Trung Ương GÐPTVN:
      – Trưởng ban: Thái Tường
      – Phó Trưởng ban Nội vụ: Phạm Ðăng Lâm
      – Tổng Thư ký: Ðỗ Văn Giu
    3. Thành phần Ban Cựu Huynh Trưởng (Ban Chấp Hành Trung Ương Cựu Huynh Trưởng GÐPTVN)
      – Trưởng ban: Tống Hồ Cầm
      – Phó Trưởng ban (Ngành Nam): Tạ Thanh Hồi
      – Phó Trưởng ban (Ngành Nữ): Huỳnh Thị Hoa
      và các Ủy viên.

    Kể từ 1946 đến 1964, từ một Gia đình nhỏ trong Nội thành Huế, từ một Tỉnh, từ một phần rồi lan rộng đến cả 4 phần trong cả nước, khắp nơi đều có Gia đình Phật tử – từ thành thị đến thôn quê, từ đồng bằng lên đến các vùng cao nguyên, nơi nơi đều có Gia đình Phật tử…

    Như con số để được nêu lên trước đây, kế đến đại hội 1964, ta đã có 942 đơn vị Gia đình, 7452 Huynh trưởng và 78.756 Ðoàn sinh (2/3 là ở miền Trung, khi miền Nam mới qua giai đoạn thành lập và miền Bắc chưa có miền Vĩnh Nghiêm tại Miền Nam)… đến đại hội 1973, không những chỉ có Thanh niên, Thiếu niên và Ðồng niên mà Gia đình Phật tử Việt Nam đã mở rộng và thành lập được cả Ban cựu Huynh trưởng… Và chỉ kể số Huynh trưởng đã thọ cấp mà thôi, ta cũng đã có 8 Huynh trưởng cấp “Dũng”, 62 Huynh trưởng cấp “Tấn”, và 308 Huynh trưởng cấp “Tín” – chưa kể các Huynh trưởng cấp “Tập” và số Huynh trưởng mới tập sự các khóa “Lộc Uyển”…

    Giới thiệu qua những con số ở trên để chúng ta càng nhận thấy ý nghĩa sâu xa trong lời nói của Anh Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung ương GÐPTVN: “Bản Nội quy đối với GÐPTVN chúng ta cũng quan trọng như bản Hiến Chương đối với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, hay bản Hiến pháp đối với quốc gia. Ðiều đặc biệt là bản Nội quy của GÐPT còn hàm chứa sự hình thành và lớn mạnh của một quá trình 30 năm sinh hoạt của tổ chức chúng ta, như trong ‘lời nói đầu’ của tập Nội quy: “‘Ðây là một công trình cân não và xương máu của toàn thể đoàn viên GÐPT từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau’”… và Những “Người Áo Lam” đến sau cùng sẽ nối tiếp truyền thống của những người đi trước đã thực hiện đúng lời phát nguyện “tích cực thực hiện Nội quy” để cho Phật pháp tăng huy, Pháp luân thường chuyển.

    • Quả thật GÐPT đã thật sự trưởng thành, trưởng thành trong tổ chức, trưởng thành trong ý thức về mối quan hệ xã hội, đầy đủ bản lĩnh thực hiện lý tưởng vì các em và cho xã hội.
    • Nhưng đâu dễ cuộc đời bằng phẳng thế!…
    • Từ 1975, thời thế đổi thay. Từ sau Ðại hội 1973 Ðà Nẵng các chương trình cải cách do Ðại hội này đề ra chưa được triển khai thì GÐPT như hụt hẩng, mọi dự phóng cho tương lai gần như phá sản, mọi hoạt động như tê liệt hoàn toàn.
    • Sự nghi ngờ, chia rẽ, phân hóa, cực đoan ngự trị xã hội. GÐPT cũng không thoát khỏi trạng huống đương thời – cộng nghiệp không ai tránh được. GÐPTVN như chế đứng một thời gian cũng là lẽ dễ hiểu. Một vài địa phương ban đầu hoạt động lẻ tẻ lần hồi tạo dựng được phong trào. Những kẻ hữu tâm không xa rời lý tưởng và giới trẻ vẫn có nhu cầu cần được giúp đỡ, thương yêu. Mầm móng các bậc tiền bối xây dựng mấy mươi năm vẫn bền vững cùng năm tháng khó khăn. Ðến nay hầu hết các tỉnh GÐPT đều có mặt và nó trở thành một vấn đề, một vấn đề lớn không những cho Giáo hội đương thời mà cho cả những người quản lý xã hội.
    • Nói như vậy để thấy rằng một chân lý vẫn đúng: Cái gì đúng tự nó tồn tại (để hy vọng tin tưởng) và cái gì sai tự nó bị đào thải (để đề phòng). Lý tưởng GÐPT thoát thai từ nhu cầu xã hội, vì lợi ích của đàn em tự nó đủ điều kiện để tồn tại.
    • Nói như vậy không phải nói chúng ta đã làm được gì trong mấy năm nay, mà để thấy tài sản của đàn anh để lại cho chúng ta quá lớn lao. Người thừa hưởng lần hồi tiêu hết tài sản được kế thừa mà chưa có phương thức làm ăn trong tương lai. Chẳng lẽ chúng ta tự hãnh diện và đòi hỏi tước vị của cha ông để lại trong hiện tại cả nhà đói meo, tương lai mờ mịt? Chẳng lẽ chúng ta tự bằng lòng với hào quang xưa cũ để trở thành “Người lính già ngồi kể chuyện Nguyên Phong”? – Mọi sự thay đổi đều có cái giá của nó. Vấn đề là phải vừa túi của mình.
    • Nhưng trên thực tế con đường phía trước còn quá mịt mờ, cương lĩnh chưa được xác lập. Một kế sách hướng tới tương lai hỏi tới lúc này là chuyện viễn vông.
    • Chúng ta tự xoa dịu mình bằng cách đổ thừa thời thế. Ðâu có? Một phần thôi, phần kia là của chúng ta. Xưa kia, các anh chị chúng ta cũng đâu thuận lợi? Có chăng chỉ là những thuận lợi giả hình của những năm sau 1963, thuận lợi đến với chúng ta từ những kẻ hoạt đầu chính trị, ve cuốt mua chuộc chúng ta từ những thế lực có uy tín xã hội để phục vụ những mưu đồ đen tối vì mục đích riêng của họ.
    • Trong những tình huống đó, tại sao các anh chị chúng ta vượt qua được, tạo được thế đứng, uy tín cho tổ chức? Những yếu tố nào? Những phẩm chất nào chúng ta sẽ lần lượt xét ở phần sau – vấn đề là chúng ta có công nhận đó là những phẩm chất tốt đẹp áp dụng có hiệu quả cho mọi trạng huống không, và chúng ta có được bao nhiêu phần.
    1 2 3 4 5
    GĐPT Gia đình Phật tử Nguyên Thành Lê Văn Hoàng
    Share. Facebook Twitter Pinterest LinkedIn Tumblr Email
    Previous ArticleThích Nữ Khánh Năng: Hình ảnh con người Đại Việt trong thời đại Lý Trần
    Next Article Dilgo Khyentse Rinpoche | Đạo Sinh chuyển ngữ: Nỗ lực tịnh hóa bản thân

    Xem thêm

    Nguyệt san Chánh Pháp số 163 | tháng 6.2025

    03/06/2025

    Tâm Thường Định: Quan điểm về tính bất nhị của Phật giáo

    03/05/2025

    Nguyệt san Chánh Pháp số 162 | tháng 5.2025

    03/05/2025
    Add A Comment
    Leave A Reply Cancel Reply

    Bài mới

    Pháp Hiền: Phật giáo – Giáo dục Phật học như thế nào?

    20/06/2025

    Tiểu Lục Thần Phong: Bồ đề Nguyên Thiều

    20/06/2025

    Đạo Sinh: (LUẬN CÂU-XÁ) Chương 4: Phân biệt nghiệp [Phần 17]

    19/06/2025

    Thích Chúc Xuân: “Sư tử trùng” thực “sư tử nhục”

    18/06/2025

    Tâm Nhãn: Đọc sách và trưng sách, đọc kinh và thờ kinh

    16/06/2025

    Võ Đào Phương Trâm: Nỗi buồn hóa chân mây

    16/06/2025

    HT Thích Minh Nghĩa: Thư bạch trình Phật sự An cư kiết hạ, Bố tát PL. 2569

    11/06/2025

    Tiểu sử Hoà Thượng Thích Minh Giác

    09/06/2025

    Tâm Quảng Nhuận: Đọc Tâm Thư như đọc lại chính mình

    06/06/2025

    Nguyệt san Chánh Pháp số 163 | tháng 6.2025

    03/06/2025
    Mạng xã hội
    • Facebook
    • Twitter
    • Pinterest
    • Instagram
    • YouTube
    • Soundcloud
    Website Phật giáo

    Hội Đồng Hoằng Pháp | GHPGVNTN

    Phật Giáo Úc Châu

    Viên Giác Pagoda

    Quảng Ðức Homepage

    Thư Viện Hoa Sen

    Làng Mai

    Hoa Vô Ưu

    Hương Tích Phật Việt

    GÐPTVN Trên Thế Giới

    GÐPT Việt Nam (Quốc nội)

    Sen Trắng | BHD GĐPTVN tại Hoa Kỳ

    © Copyright 2025, ThuVienPhatViet.Com. All Rights Reserved
    • Mục đích & Chủ trương
    • Tác giả
    • Liên lạc

    Type above and press Enter to search. Press Esc to cancel.

    Go to mobile version