PHẬT PHÁP
(CHƯƠNG TRÌNH CỦA GIA ĐÌNH PHẬT TỬ)
BIÊN TẬP
THÍCH MINH CHÂU, THÍCH THIÊN ÂN, THÍCH ĐỨC TÂM, THÍCH CHƠN TRÍ
______________
[box type=”shadow” align=”” class=”” width=””]
B – BẬC TRUNG THIỆN
- SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT DI LẶC
- SỰ TÍCH NGÀI VĂN THÙ SƯ LỢI
- SỰ TÍCH CHÙA QUỐC ÂN
- SỰ TÍCH CHÙA THUYỀN TÔN
- LÝ NHÂN DUYÊN SINH
- LÝ NHÂN QUẢ
- LÝ LUÂN HỒI
- NĂM GIỚI
- MƯỜI ĐIỀU THIỆN
- BỐN ÂN
- BỐN NHIẾP PHÁP
- TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA BẬC ĐẠI NHƠN
- AN CƯ KIẾT HẠ
- LỊCH SỬ ĐẠO PHẬT VIỆT NAM TỪ THỜI ĐẠI DU NHẬP ĐẾN ĐỜI LÝ
- BIẾT NĂM MẨU CHUYỆN ĐẠO[/box]
SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT DI LẶC
I- THÂN THẾ VÀ Ý NGHĨA TÊN NGÀI
Ngài là người giòng Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc; thân sanh tên là Ba-bà-lợi, họ A-dật-đa, tên là Di Lặc. A-dật-đa nghĩa là Vô năng thắng hạnh tu và lòng từ bi của Ngài không ai sánh kịp. Di Lặc dịch là Từ Thị là vì khi mẹ Ngài chưa thọ thai thì từ tâm rất kém, khi thọ thai Ngài thì phát tâm từ bi. Lại trong một kiếp trước, Ngài làm vị tiên tên là Nhứt Thế Trí Quang, nhờ Đức Phật dạy pháp tu Từ tâm Tam muội, Ngài tu pháp ấy đến khi thành Phật, nên gọi Ngài là Từ Thị.
II- TIỀN THÂN CỦA NGÀI
Trong một tiền kiếp thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, Ngài cùng Đức Phật Thích Ca đồng thời phát Bồ-đề tâm tu các pháp lành. Đến đời Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng, Ngài cũng xuất gia tu hành, nhưng Ngài có lòng từ bi, lại thiếu hạnh tinh tấn, nên khi Đức Phật Thích Ca thành Phật, Ngài mới lên địa vị Bồ-tát bổ xứ, nghĩa là sẽ thành Phật, trong một đời sau. Ngài được Đức Phật Thích Ca thọ ký sẽ thành Phật Di Lặc sau này tại hội Long Hoa.
III- HẠNH TU, HẠNH NGUYỆN CỦA NGÀI
- Hạnh tu. – Ngài nhờ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng dạy tu pháp tu Duy Thức mà ngộ nhập được viên thông. Chúng sanh đều chấp trước các pháp, các danh tướng của thế gian là thực có (biến kế), nên bị danh tướng ràng buộc, sự thật các pháp đều y nơi nhân duyên giả hợp mà in tuồng có sanh, có diệt (y tha). Chung quy các pháp không ra ngoài một chơn tánh viên mãn thành tựu (viên thành thật).
- Hạnh nguyện. – Hiện nay Ngài ở trên cõi Đâu Suất nội viện, độ thoát cho vô số chúng sanh. Ngài thường ngồi trên pháp tọa sư tử, thân thể trang nghiêm, trí hạnh đầy đủ. Do lòng từ bi và hạnh nguyện rộng lớn của Ngài, nên những ai sanh lên cõi Đâu Suất nội viện thì không còn thoái đọa; vì tất cả những hiện tượng trên thế giới ấy đều là tiếng thuyết pháp khuyến tu, nhứt là được sự hộ trợ của Ngài. Đến khi nhơn loại sống lâu trên tám vạn tuổi, Ngài mới hiện sanh và thành Phật dưới cây Long
IV- MỘT HÓA THÂN CỦA NGÀI
Một thời kia, sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, Ngài hiện thân làm một vị Hòa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa tên là Khê Thử. Mình Ngài rất to lớn, tánh tình hoan hỷ nói năng khác thường ngủ nghỉ không chọn sang hèn. Ngài thường quảy đãy vãi đi khất thực, đem về nuôi trẻ con, và thường làm những việc rất ly kỳ, mắt phàm không thể hiểu được. Người đời thường gọi là Bố Đại Hòa thượng (Vị Hòa thượng mang đãy vải). Trước khi thị tịch. Ngài có di chúc bài kệ:
“Di Lặc thiệt là ta,
Phân thân như hằng sa
Thường hiện làm thường dân,
Mắt phàm không thấy ta”.
Hiện nay, người ta thờ Ngài tại chùa Nhạc Lâm ở Trung Hoa.
V- BIỂU TƯỚNG VÀ LÒNG QUY NGƯỠNG CỦA PHẬT TỬ
Hiện nay các chùa thờ tượng: Đức Phật Thích Ca là Đức Phật hiện tại, ngồi ở giữa, Đức A Di Đà là Đức Phật quá khứ ngồi bên tả Đức Thích Ca, Đức Di Lặc là Đức Phật vị lai, ngồi bên hữu Đức Thích Ca. Tượng Ngài Di Lặc cũng giống như các Đức Phật khác. Có chỗ tạc hình Ngài thân thể to lớn, mặt mày vui vẻ hoan hỷ vô cùng, để thị hiện từ tâm hoan hỷ của Ngài. Lại có sáu đứa con nít leo lên mình chọc Ngài. Ngài vẫn hoan hỷ tự tại, vui vẻ như thường. Sáu đứa con nít là biểu hiện cho sáu thức luôn luôn quấy rầy phá rối Ngài.
Nhưng Ngài đã tu phép quán Duy Thức, cho nên dầu bị quấy rầy Ngài cũng như không, tự tại vui vẻ như thường. Tượng này là phỏng theo sự tích ngài Bố Đại Hòa thượng.
Đức Phật Di Lặc là vị Bồ-tát bổ xứ, sẽ thành Phật trong một kiếp sau. Ngài tượng trưng cho lòng từ, hoan hỷ, cho vui, nên Phật tử luôn luôn tôn thờ.
Niệm hiệu Ngài tức là:
- Niệm hạnh hoan hỷ, luôn luôn vui vẻ tự tại không bị hoàn cảnh xung quanh chi phối.
- Cầu mong Ngài trở về hóa độ và hộ trì cho lòng thành kính của mình.
- Kết duyên với Ngài mong sau này dự vào hội Long Hoa được Ngài giáo hóa.