Ngô Mạnh Thu,
Nguyễn Thanh Hùng,
hình bóng
Phạm Quốc Bảo
Ngô Mạnh Thu mất tháng 8 năm 2004, hưởng thọ 67 tuổi; còn Nguyễn Thanh Hùng mất năm 2011, lúc ấy anh khoảng gần 80 gì đó.
Tôi nhớ như vậy, và không tự thúc giục mình phải đứng lên lục lại tài liệu sách vở ra để truy cứu cho đích xác. Bởi thực tâm tôi lúc này thấy không còn cần phải thực hiện những cách thức mà thường ra mấy năm trước tôi vẫn áp dụng. Chính xác hay không thì theo cá nhân tôi thấy hai bạn tôi đều đã sống một cuộc đời đáng sống. Như vậy, đối với tôi là đủ.
Tuy nhiên tôi vẫn nhớ tiếp rằng khi mất họ, tôi đã thương tưởng đến họ ít nhất trong việc ghi lại vài ba bài viết nào đó trong quá khứ rồi… Mà nói cho cùng kỳ lý ra thì tôi có viết gì về họ, cũng đều phát xuất cụ thể từ những gì tôi nhớ về họ vào những thời gian ấy mà thôi.
Riêng cá nhân tôi, năm nay cũng đã 73 tuổi. Cái cảm nhận về chính tôi cũng mang một màu sắc hiu hắt trong tâm tưởng của chính mình…, và tôi chợt thấy hiện ra trong trí nhớ mấy câu thơ mở đầu cho bài “Thăm mả cũ bên đường” của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939). Đó là mấy câu có âm điệu ngang cành bứa, vừa tạo cho người đọc chia xẻ một niềm xúc động chua xót nửa vời đến mênh mang mà lại vừa khiến ta bị chi phối bởi một cảm giác bơ vơ buồn man mác. Mấy câu thơ này đã dẫn nhập tôi vào một khung cảnh bùi ngùi thương tiếc một cách đặc biệt của trọn bài thơ diễn ra sau đấy:
“Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà
Đường xa người vắng bóng chiều tà
Một rẫy lau cao làn gió chạy
mấy cây thưa lá sắc vàng pha…
Ngoài xe trơ một nấm đất đỏ
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà
Người nằm dưới mả ai ai đó
Biết có quê đây hay vùng xa”…[1]
Sau này tôi được biết là anh Thanh Hùng đã tốt nghiệp kỹ sư công chánh từ thời học ngòai Bắc, “vượt tuyến” vào Nam năm 1957 qua ngả Lào. Còn Ngô Mạnh Thu thì tốt nghiệp ca trưởng và soạn hòa âm ở trường Quốc Gia Âm Nhạc Sàigòn; và ngay sau đó anh Thu đã sinh họat rộn ràng trong ngành hợp ca, như điều khiển ban hợp ca Liên Hoan Văn Nghệ Tổng Liên Đòan Học Sinh Việt Nam trình diễn vào 25 Tết (đêm mùng 2 tháng 2 năm 1959), rồi Ban Hợp Ca Duy Linh (1964)… Tết năm 1963 sang 1964, ban hợp ca Đại Học Xá Minh Mạng chính thức xuất hiện trình diễn trên khán đài của Đại Học Xá và trong Hội Tết Làng Văn Khoa Sàigòn. Giới sinh viên và hàng ngàn khán thính giả thời ấy đã được nghe Thanh Hùng ngâm thơ sang sảng, còn Ngô Mạnh Thu thì điều động và Minh Thánh Tổ bắt nhịp: “Vào rừng hoang, ngắt một cành hoa, hoa non ngàn…”
Cùng năm 64, nhân dịp đại hội giới huynh trưởng Phật Tử, Ngô Mạnh Thu chính thức hướng dẫn ban hợp ca mấy chục ca viên hát Trường Ca Lửa do anh sáng tác và soạn hòa âm, mà theo tôi được biết là nội dung khởi hứng từ sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. để đòi tự do và bình đẳng cho sinh họat tôn giáo trong xã hội bấy giờ. Rồi suốt mười mấy năm sau đó, nghĩa là tới 30 tháng Tư 1975, anh Ngô Mạnh Thu liên tục sinh họat chính thức để trở thành huynh trưởng cấp Tấn của hệ thống Huynh Trưởng Phật Tử; và đồng thời cùng với Nguyễn Đức Quang, anh Thu là một huynh trưởng sáng tác- tổ chức nổi danh của phong trào Du Ca. Bên cạnh đấy, anh Thu còn là một nhạc sĩ có bề dày sáng tác tình ca với các nhạc sĩ sáng tác đồng thời như Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An…, tuy nhiên đáng kể nhất là về ba lãnh vực nhạc Phật Giáo, Hùng Sử Ca và nhạc thiếu nhi, cùng với các bậc đàn anh như Lê Thương, Lê Cao Phan…
Trong khi ấy, ngòai tư cách công chức chuyên môn ngành kỹ sư, Thanh Hùng đã là một tên tuổi ngâm thơ nổi tiếng trong ban Tao Đàn do Đinh Hùng chủ xướng xuất hiện thường xuyên hằng tuần trên các đài phát thanh và truyền hình VNCH.
Sau 75, ngòai hải ngoại, ba mươi năm đầu, Thanh Hùng nổi tiếng với nghệ danh Nguyễn Thanh trong sinh họat văn hóa hằng năm như tại các Đại Hội Văn Hóa Việt ở Houston, Texas và các lần Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế ở Mỹ thường diễn ra tại New York mà có sự tham dự tích cực của cộng đồng gốc Việt…
Trong nhóm anh em cùng họat động văn nghệ hai mươi năm 1954- 1975, Ngô Mạnh Thu cùng gia đình sang Mỹ định cư trễ nhất, dường như tôi nhớ không lầm là cuối năm 1994. Sang đến nơi là Ngô Mạnh Thu bắt tay vào công việc cùng với anh em luôn:
– Anh lập tức hướng dẫn lịch trình họat động của Gia Đình Phật Tử Miền Vĩnh Nghiêm, tổ chức liên tục những trại họp bạn và thực hiện liên tiếp mấy đặc san Miền Vĩnh Nghiêm cho riêng nhóm gia đình này: Đặc biệt nhất là phải nhắc đến cuốn tóm tắt như một tài liệu, Gia Đình Phật Tử Miền Vĩnh Nghiêm 2003, và cuốn Kỷ Yếu Vĩnh Nghiêm năm 2000 do anh chủ trương biên soạn.
– Anh phục họat phong trào Du Ca đang trên đà rời rạc, kể từ Đêm Du Ca Mùa Xuân năm 1986 tại Hội trường của Orange Coast College, bằng những hình thức sinh họat mới, phù hợp với nhu cầu phát triển địa bàn hải ngoại của cộng đồng gốc Việt, như những kỳ trình diễn. cũng như những tập tài liệu in ấn cho phong trào Hát Cộng Đồng, Hùng Sử Ca, Tù Ca, Tỵ Nạn Ca…
– Anh hăng hái tiếp tục sáng tác nhạc đủ loại, từ nhạc Phật, nhạc thiếu nhi, nhạc Du Ca và tình ca… Ngòai ra anh còn cộng tác với các tổ chức văn hóa, gồm phong trào dạy Việt ngữ và viện Việt Học để soạn, ấn hành và thực hiện những tập sách, video và CD nhạc thiếu nhi Việt…
– Riêng một phương tiện vừa để kiếm sống lại vừa phù hợp & phát tiển khả năng sẵn có của gia đình anh trong cuộc sống mới tại xứ người, Thu hằng ngày bắt tay vào công việc ngay với đài phát thanh VNCR. Trong công tác này, anh nổi bật nhất là chủ biên những tập Kỷ Yếu VNCR YearBook xuất bản hằng năm và phụ trách thường ngày tiết mục được giới thính giả thương mến trân trọng nhất là chương trình Chúng Ta Đi Mang Theo Quê Hương.
– Bên cạnh đấy, anh còn thường xuyên cộng tác với Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt-Mỹ (VAALA) để thực hiện những tập san sinh họat hằng năm của VAALA, chủ trì một số sinh họat Văn Học Nghệ Thuật… Trong đấy, đặc biệt nhất là anh làm chủ biên cho tuyển tập nhiếp ảnh của Trần Đại Lộc và tập nhạc của Nguyễn Đức Quang có tên là Dưới Ánh Mặt Trời…
*
Đọc mấy dòng tóm tắt về hành trạng của hai anh vừa nêu trên, chắc quí bạn đã thấy rõ rằng trí nhớ của tôi bây giờ nó nhảy cóc giữa hai anh thì đủ biết là nó đã tồi tàn đến mức nào rồi. Nghĩa là mặc dù các anh ấy đã sống ít nhất cũng được sáu mươi mấy -bẩy mươi mấy năm mà được tôi diễn tả phơn phớt qua, y như là hai anh chỉ phất phơ trong đời sống đã qua rồi mà như hai cái bóng vậy…
Nhưng thật sự tôi phải thú nhận với quí bạn rằng xưa nay tôi vốn chỉ tham gia mà chưa bao giờ để ý ghi nhớ đến những họat động đại loại, không những của thân hữu mà ngay của cả chính mình nữa! Xin thứ lỗi cho tôi cái thiếu xót không thể tránh được này.
Điều mà tôi mong được chia xẻ ở đây với quí bạn là những cảm nhận về đời sống mà tôi cùng có mặt với hai người bạn này, cho đến bây giờ chúng vẫn còn sống động trong tâm khảm của tôi:
Cùng làm việc chung trong một cơ sở truyền thông, có những chiều Ngô Mạnh Thu và tôi đi lại vơ vẩn ở mảnh sân phía sau sở làm, miệng ngậm điếu thuốc lá, mắt vẩn vơ nhìn những đám hải âu từng đòan lặng lẽ từ đất liền bay về hướng biển, thỉnh thỏang hai chúng tôi nghe một tiếng gọi đàn lẻ loi vang vọng giữa không trung bao la mây xám… Viết lại bây giờ, tôi nhớ đến mấy câu của Hàn Mặc Tử:
“Trước sân anh đứng đợi
đăm đăm trông nhạn về
mây trời còn phiêu bạt
lang thang trên đồi quê…”[2]
Có những tối, kết thúc việc thu vào băng chương trình dài nửa tiếng để 6 giờ sáng ngày mai cho phát thanh sớm, trên đường về thì Ngô Mạnh Thu vẫn thích tạt qua nhà tôi, thường là đúng lúc vợ chồng tôi đang còn ở bàn ăn, anh ngồi ngòai hiên tối, lặng lẽ đốt điếu thuốc chờ tôi ra; và sau đó thì hai đứa chúng tôi… cũng chỉ nhâm nhi với nhau một bình trà mộc Thái Nguyên, chứ nhiều khi chả có trao đổi với nhau một câu chuyện làm quà nào cả…
Có lần từ Dallas qua chơi, bù khú với nhau ở nhà Ngô Mạnh Thu, Nguyễn Thanh Hùng hứng khởi “thuyết” về khoa địa lý và miên man khen lao từ Cao Biền đến cụ Tả Ao, rồi lan man đổi đề tài, anh không ngớt lời ca tụng những nhân vật như các bồ tát hiện thân trong lịch sử Việt, từ hòang thái hậu Dương Vân Nga (952- 1000) đến công chuá Huyền Trân (1287- 1340), công chúa Ngọc Vạn (năm 1620 được gả cho vua Chân Lạp, tạo mối giao hảo giữa triều chúa Nguyễn trong Nam với xứ này), anh lại bắt quàng sang những nhân vật huyền thọai của Đạo Mẫu như bà chúa Thượng Ngàn, bà chúa Liễn Hạnh, Bà Đen, và cả nhân vật trong truyện cổ tích Tấm-Cám là Cô Tấm. Anh kể dài dòng một cách thán phục cái đoạn kết mà sau này người ta chủ ý thêm thắt vào nội dung nguyên thủy một cách bôi bác là cho cô Tấm trả thù bà dì ghẻ lẫn cô Cám (tôi thấy kỳ nên không muốn nhắc nguyên văn ở đây). Đến “nước” này thì Ngô Mạnh Thu không thể “nhịn” được nữa rồi, anh chỉ “phán” một câu cụt ngủn: “Bồ Tát đọa!” Cho đến khi quá khuya, tôi đứng dậy từ giã ra về thì anh Thu mới nhẹ nhàng nói với Thanh Hùng mà cũng để cho tôi nghe được luôn: “Anh đừng để cho tình thế cô độc hiện giờ ở bên chỗ trú ngụ của anh nó lấn áp tâm tư anh một cách tai hại tới độ anh đã thả lỏng sức tưởng tượng của mình bành trướng quá đáng, làm sai lệch đi cái chất lãng mạn là vốn liếng sẵn có của anh từ xưa đến nay ”…
Đề cập tới chất lãng mạn này, tôi lại liên tưởng đến một sự kiện là trưa ngày thứ ba, mùng 10 tháng 8 năm 1999, nghe tin chị Thái Hằng ốm nặng và mới được bệnh viện cho về săn sóc ở nhà (nơi mà chính anh Phạm Duy đã từng ghi là Thị Trấn Giữa Đàng, Midway city), và cũng nhân dịp Nguyễn Thanh Hùng vừa từ Dallas sang chơi, Đỗ Ngọc Yến rủ cùng với tôi và thuận tiện có thêm Lý Kiến Trúc tháp tùng theo nữa, đến thăm. Anh Phạm Duy hứơng dẫn chúng tôi vào tận giường chị đang nằm ở phòng trong. Bất ngờ một lúc gặp được mấy đứa em văn nghệ thân tình, chị Thái Hằng tươi tắn hẳn lên, tiếp chuyện khá rôm rả. Cầm tay chị, Thanh Hùng vô cùng “điệu nghệ” nhắc lại sự kiện anh sinh viên cầm đầu cuộc biểu tình đòi độc lập hồi tháng Tám 1945 tại Hànội và bị bắn chết (Tôi chỉ nhớ, nghe nói anh sinh viên này vốn là “bạn” thuở ấy của chị Thái Hằng); rồi Thanh Hùng ngâm luôn một đoạn bài Phạm Thái- Quỳnh Như (thơ của Nguyễn Đình Toàn), giọng anh vừa trong trẻo vừa thủ thỉ tâm tình, đã khiến ánh mắt chị Thái Hằng long lanh…
Ngay sau đấy, mặc dù chị vẫn cứ cố níu lại, nhưng chúng tôi đã phải nghe theo lời anh Phạm Duy ra hết ngòai phòng khách ngồi uống trà… Chưa bao giờ chúng tôi thấy anh Phạm Duy cảm động đến như lúc ấy. “- Cảm ơn các em…”, giọng anh mềm nhũn…
*
Nhưng có hai sự kiện mà tôi thấy cần nhắc lại ở đây:
– Trường Ca LỬA vốn là một sáng tác dài hơi và đắc ý nhất của Ngô Mạnh Thu mà cho đến nay, trên nửa thế kỷ rồi, tác phẩm này “biến mất” vào hư không, giống như nó không hề xuất hiện, kể cả bản thảo tập nhạc lẫn những ký âm-ký hình!
– Thêm nữa, suốt gần 10 năm, theo như những thúc giục của thân hữu, Ngô Mạnh Thu đã nhận trọng trách thu hình lẫn âm thanh cho một chương trình tiêu biểu cho sự nghiệp văn nghệ của Nguyễn Thanh Hùng. Thế mà biết bao lần từ Dallas sang Nam Cali chơi, đôi khi cả vài tháng trời, Thu chỉ “bắt xác” Hùng được dăm chục phút thu âm lẻ tẻ thôi, chứ còn bao nhiêu thời gian Thanh Hùng bị mắc bận “ta bà thế giới”, la cà bù khú với bạn bè thân sơ hết trọi!
Đến khi họ qua đời, những gì đóng góp đáng kể nhất ở cuộc đời của họ, theo cái nhìn của một người đang sống thì đều không được cụ thể ghi lại một chút gì cả! Đây có lẽ là một thiếu xót đáng tiếc… Tuy nhiên, cũng để tự an ủi, và với mức hiểu biết của tôi hiện giờ về yếu chỉ của Thiền, thì hai người bạn của tôi, anh Ngô Mạnh Thu và anh Nguyễn Thanh Hùng, tôi lại thấy họ đã sống thanh thản như đã “thõng tay vào chợ” suốt cả cuộc đời của họ.
Cuối cùng, xin các bạn đọc lại bài thơ tôi đã viết lúc tiễn anh Thu, nhưng trong bối cảnh như tôi vừa diễn đạt ở trên, tôi nhớ đến cả hai anh và gửi lời theo họ, Ngô Mạnh Thu & Nguyễn Thanh Hùng:
Gửi theo Ngô Mạnh Thu
Tối thứ Năm, Aug. 19- 2004.
Ru anh anh ngủ cho yên
từ nay tôi chẳng êm đềm như xưa
hơi thuốc rồi sẽ thẫn thờ
với nhiều chì chiết hững hờ ở quanh
Còn đâu ấm áp từ anh
cho tôi mơ ước biến thành mênh mông
Ru anh anh cứ mộng thường
để đời thấy rõ mà thương việc lành
ở đây người chỉ lanh tranh
những yêu cùng ghét riêng mình cá nhân
Ru anh anh vẫn cầu thân
cùng cây cỏ tới vô ngần nhân gian
cho người ở lại tỉnh dần
khỏi cơn ảo mộng lần khân tự mình
Ru anh anh lại làm thinh
cho tôi sống nhẹ nhõm tình anh em
mai sau dù có lèm bèm
thì ta đánh giấc chẳng thèm xác đây
Ru tôi sống chết mặc thây
dốc lòng phục vụ cho đầy nghiệp thân
thõng tay giữa chợ bẽ bàng
rồi ra số kiếp bàng hòang ấy thôi
Ru anh mà cũng ru tôi
trước sau mấy nhẽ nhắc người trầm luân…
Đốt lên điếu thuốc, ngại ngần…
(Viết lại lần thứ ba vào 16: h 31; Thứ Tư, May 13 /2015.
Trích Kỷ Yếu GĐPT Vĩnh Nghiêm 2015
________________
[1] Thăm mả cũ bên đường
Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà
Đường xa người vắng bóng chiều tà
Một rẫy lau cao làn gió chạy
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha
Ngoài xe chở một nấm đất đỏ
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà
Người nằm dưới mả ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa
Hay là thủơ trước kẻ cung đao?
Hám đạn, liều tên, quyết mũi dao
Cửa nhà xa cách, vợ con khuất
Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao
Hay là thủơ trước kẻ văn chương?
Chen hội công danh nhỡ lạc đường
Tài cao, phận thấp, chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương
Hay là thủa trước khách hồng nhan?
Sắc sảo khôn ngoan giời đất ghen
Phong trần xui gặp bước lưu lạc
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn
Hay là thủa trước khách phong lưu?
Vợ con đàn hạc đề huề theo
Quan san xa lạ đường lối khó
Ma thiêng nước độc phong sương nhiều
Hay là thủa trước bậc tài danh?
Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh
Giận duyên tủi phận hờn ân ái
Đất khách nhờ chôn một khối tình!
Suối vàng sâu thẳm biết là ai
Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!
Trải bao ngày tháng trơ trơ đó
Mưa dầu nắng giãi giăng mờ soi
Ấy thực quê hương con người ta
Dặn bảo trên đường những khách qua:
Có tiếng khóc oe thời có thế
Trăm năm ai lại biết ai mà!
(Nguồn: Tản Đà, Khối tình con-Quyển thứ nhất, Tản Đà thư cục in lần thứ hai, 1918)
[2] Tình quê
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê.
Gió chiều quên ngừng lại
Dòng nước quên trôi đi
Ngàn lau không tiếng nói
Lòng anh dường đê mê
Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi đến trăng thề
Dầu ai không mong đợi
Dầu ai không lắng nghe
Tiếng buồn trong sương đục
Tiếng hờn trong lũy tre
Dưới trời thu mang mác
Bàng bạc khắp sơn khê
Dầu ai trên bờ liễu
Dầu ai dưới cành lê
Với ngày xuân hờ hững
Cố quên tình phu thê
Trong khi nhìn mây nước
Lòng xuân cũng não nề.
* Hàn Mặc Tử. (1912- 1940)